Đức tin và lối đến Thiên đường
Điều quan trọng nhất để con người tìm thấy vẻ đẹp kỳ diệu của đời sống là đức tin. Và đức tin không chỉ dành cho con người mà là sự tồn tại của chính các vị Thánh.
Mỗi sáng thức dậy, bạn có thể thấy thêm một cuốn sách Thánh được in ra, thêm một nhà thờ, thêm một ngôi chùa mọc lên trên thế gian của chúng ta. Và mỗi sáng thức dậy, bạn có thể thấy thêm một người đến nhà thờ, đến với chùa chiền, đến với các buổi giảng kinh... Nhưng mỗi sáng thức dậy, bạn sẽ thấy thêm một người đánh mất đức tin vào đời sống trên thế gian này và trở nên tuyệt vọng hoặc trở nên tội lỗi.
Và có lẽ, trong lịch sử nhân loại, chưa bao giờ những cuộc chiến tranh lại nhiều như bây giờ và man rợ như bây giờ. Ngay trong chính đời sống của mỗi con người đang hiện hữu trên thế gian này, chúng ta cũng nhận ra chúng ta dần dần trở lên mù loà trong chính ánh sáng mà chúng ta từng được khai mở và được ban phước.
Thế gian đang đến gần với Thiên đường như con người trên thế gian này đêm ngày nguyện cầu hay đang lạc đường và tàn lụi ? Với cái nhìn một cách đầy đủ và công bằng vào đời sống của con người, chúng ta có thể nói: thế gian đang lạc đường và tàn lụi.
Bạn có thể không đồng tình với câu trả lời như một sự tuyệt vọng này của tôi. Bởi bạn đang sống trong một đời sống nhiều của cải vật chất hơn. Bạn đang mỗi ngày lút sâu trong đầm lầy của thói ngạo mạn và tăm tối khi thấy mình đang sở hữu nhiều vật chất và quyền lực hơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ bạn.
Nhưng nếu chúng ta đặt câu hỏi về đời sống này với đúng bản chất tinh thần của nó và lắng nghe câu trả lời thành thực nhất theo một phép liên hoàn từ nhiều thế hệ trong gia đình bạn: cụ kỵ, ông bà, cha mẹ...thì bạn sẽ nhận thấy những câu trả lời này sẽ dựng lên một lộ trình của tinh thần đời sống giống như tiến trình đóng băng của một dòng sông.
Dòng nước bị băng hoá từ từ và cuối cùng trở nên bất động: cái chết của dòng chảy - sự sống. Sự băng giá từ từ hay một cái chết chậm không làm cho bạn nhận biết về nó. Ngược lại, bạn đã lầm tưởng bạn đang đến gần với một thế giới ánh sáng.
Cũng trong hơn 100 năm nay, từ thế kỷ 20 đến thập niên đầu của thế kỷ 21, các cuộc chiến tranh tôn giáo trở nên tồi tệ hơn bao giờ hết. Sự mù loà về Thượng đế, Thần Phật hay các vị Thánh và đức tin bắt đầu từ chính những nơi ở ngay trên thế gian này mà chúng ta tin Thượng đế, Thần Phật hay các vị Thánh thường đến trú ngụ.
Cho dù tôi không hiểu một chút nào về bản chất của các tôn giáo hay lịch sử của nó thì tôi vẫn có thể cất lên một câu hỏi chính xác về những gì đang xẩy ra trong đời sống tôn giáo của nhân loại: Chúng ta sẽ lý giải như thế nào khi những người Thiên chúa giáo tìm mọi cách chống lại những người Hồi giáo hay những người Phật giáo và ngược lại.
Tại sao Jesus lại đối nghịch với Đức Phật hay Thánh Ala? Mọi đối nghịch một cách tồi tệ và u tối này sinh ra bởi chính chúng ta. Thật hổ thẹn và tội lỗi khi một người Thiên chúa giáo kêu gọi chống lại một người Hồi giáo và ngược lại. Nhưng điều tồi tệ này đã và đang xảy ra.
Nó làm cho tinh thần tối thượng của các tôn giáo bị tàn phá. Nó làm cho chúng ta tin rằng lực lượng của Bóng tối đã chiếm ngự thế gian như quá nhiều các tác phẩm văn học, điện ảnh và những lời tiên tri đã thường đề cập tới là một hiện thực.
Lời truyền tin (2000), sơn dầu trên vải, Nguyễn Đình Đăng
Những "Nhà nước" của các tôn giáo là những người đầu tiên chịu trách nhiệm về việc mở cửa cho lực lượng của Bóng tối tràn đến thế gian.
Còn đối với những người vô thần lúc này lại có quá nhiều cơ hội để cười nhạo các tôn giáo và các vị Thánh. Và trong mắt họ lúc này, nhà thờ hay chùa chiền chỉ là những túp lều được sơn quét sặc sỡ mị dân phù phiếm trên một thế giới quá nhiều lầm lạc, nhiều thù hận và nhiều tội lỗi và trở lên trơ trẽn.
Khai mạc Thánh lễ tại Sở Kiện, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Ảnh: MT
Phải chăng Chúa và Phật đang bỏ loài người như ca từ trong một bài hát của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn? Không, Họ không rời bỏ chúng ta như những vẻ đẹp của đời sống này không rời bỏ chúng ta. Chỉ chúng ta đang trở lên mù loà và mỗi ngày rời bỏ Họ. Chúng ta ngày ngày tìm đến những nơi chốn tôn nghiêm và quỳ gối hay cúi đầu cầu xin Thượng đế, Thần Phật và các vị Thánh ban phước cho chúng ta. Và quá nhiều người trong chúng ta trở nên tức tối hoặc tuyệt vọng khi những lời cầu xin của chúng ta không được đáp lại.
Thực tế, hàng ngày, Thượng đế vẫn gửi những món quà cho chúng ta. Chỉ có điều chúng ta không nhận ra những món quà ấy. Bởi chúng ta đã hoàn toàn hiểu sai lệch và lạc đường trong hành trình đi tìm những vẻ đẹp vĩnh hằng của đời sống.
Nhiều lúc nhìn con người chen chúc nhau trên mọi ngả đường của thế gian, chúng ta giật mình kinh hãi nhận ra rằng: chúng ta đang mang trên mình những con mắt và những cái tai giống đồ mỹ ký không một chút giá trị thực nào. Chúng ta không có khả năng nhìn ra những vẻ đẹp và không có khả năng nghe thấy những điều kỳ diệu trong đời sống của mình.
Giáng sinh năm ngoái, tôi không đi nhà thờ mà ngồi xem lại bộ phim hoạt hình The Polar Express khi chuông nhà thờ ở thị xã Hà Đông vang lên trong giá lạnh.
Bộ phim kể về một cậu bé đã đi một chuyến tàu trong giấc mơ lên phương Bắc. Ở đó, cậu đã gặp ông già Noel và được tặng một chiếc chuông gắn trên chiếc xe kéo tuần lộc. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, cậu bé mở một gói quà và thấy chiếc chuông đó. Cậu lắc khẽ chiếc chuông và một âm thanh diệu kỳ mà cậu đã nghe thấy trong cơn mơ của mình giờ đây đang tràn ngập tâm hồn cậu. Cậu tin cậu đã đến được miền đất ấy và gặp được ông già Noel.
Nhưng khi cha mẹ cậu nhìn thấy chiếc chuông cũ kỹ thì muốn vứt đi. Cậu bé nói cho cha mẹ mình về tiếng chuông diệu kỳ ấy. Cả hai người lớn kia lắc mãi và lắc mãi chiếc chuông nhưng họ không nghe thấy gì. Họ không tin có điều ấy.
Tiếng chuông diệu kỳ kia là có thật. Nó không phải là chuyện cổ tích. Nhưng chỉ có những cái tai của một tâm hồn trong sáng và tràn ngập đức tin thì mới nghe thấy. Những người lớn chúng ta đã đánh mất tâm hồn ấy và chúng ta không hề nghe được những điều kỳ diệu của đời sống này. Các vị Thánh cùng những phép thiêng không bao giờ rời bỏ chúng ta. Họ luôn luôn ở bên cạnh chúng ta đợi tâm hồn và đức tin chúng ta hồi phục như những bà mẹ thức trắng bên giường những đứa con đang trong cơn sốt mê sảng và chờ chúng tỉnh dậy.
Có rất nhiều cậu bé, cô bé trên thế gian này giống cậu bé trong bộ phim kia đã đến được nơi chốn mà chúng ta thường nhếch mép cười khẩy và mỉa mai đó chỉ là một ảo giác. Nhưng chúng ta lại luôn luôn nói về Thiên đường và cầu xin được đến Thiên đường sau khi rời bỏ đời sống thế gian này. Và sự khao khát đến được Thiên đường của chúng ta như thế rõ ràng là một thói hưởng thụ như mọi thói hưởng thụ vật chất trong đời sống chúng ta mà thôi. Chúng ta không hề hiểu rằng: chỉ có một đời sống đích thực ý nghĩa của chúng ta mới đủ trả cho tấm vé lên chuyến tàu đến Thiên đường của mỗi chúng ta.
Nhưng điều tối quan trọng là chúng ta đã sai lầm tệ hại khi hiểu rằng giữa thế gian chúng ta đang sống và Thiên đường được phân cách bằng một đường biên giới như đường biên giới giữa các quốc gia. Thế là, chúng ta cho phép mình sống tuỳ tiện với mọi ham muốn thấp hèn ở phần bên này của đời sống: Thế gian mà không chịu hối hận. Rồi chúng ta đợi một ngày với ý nghĩ rằng những khôn lỏi và mưu mô sẽ giúp chúng ta nhanh chân hơn người khác lọt sang phía bên kia: Thiên đường, để tha hồ tiếp tục hưởng thụ và thoả mãn những dục vọng của chúng ta như khi đang sống ở Thế gian mà chẳng phải làm gì.
Thực tế, chỉ có một đường biên giới duy nhất giữa thế gian và Thiên đường. Đó là chính thân xác tội lỗi của chúng ta. Khi chúng ta ngăn chặn mọi cuộc chiến tranh, huỷ diệt mọi hận thù, khi chúng ta chia sẻ và yêu thương con người và thiên nhiên một cách chân thành, khi chúng ta luôn mỉm cười với người bên cạnh, khi chúng ta thấy ngập tràn hạnh phúc mỗi lúc chìa bàn tay nhân ái về phía những số phận khổ đau... thì ngay lập tức Thiên đường tràn ngập ngay nơi ta ở, cho dù đó là một căn phòng chật chội và treo nhiều quần áo cũ.
Tại sao chúng ta lại không chịu thừa nhận những điều kỳ diệu của đời sống như thừa nhận tiếng chuông mà cậu bé nghe được trong cơn mơ của mình? Tại sao chúng ta lại không hiểu đó là một hiện thực? Bởi chúng ta là những kẻ bị chủ nghĩa vật chất mê dụ.
Chúng ta chỉ muốn thừa nhận những điều kỳ diệu của đời sống này như thừa nhận sự hiện diện của những miếng bít tết trên đĩa sứ. Nó làm thoả mãn vị giác của chúng ta và những cơn đói nhục dục.
Có một câu hỏi mà một người bạn tôi từng hỏi nhưng chưa ai trả lời làm thoả mãn ông. Câu hỏi đó là: Nếu Chúa Jesus, thánh Ala và Đức Phật có quyền năng tối thượng sao Họ không "phẩy tay" để xua đi ngay lập tức mọi đói rét, bệnh tật, thù hận, khổ đau trên thế gian này mà cứ để thế gian chìm đắm mãi trong bóng tối của những đau khổ ấy?
Tôi đã nói với bạn tôi rằng câu trả lời ở đây chính là vấn đề về đức tin và ý nghĩa đích thực của hạnh phúc.
Điều quan trọng nhất để con người tìm thấy vẻ đẹp kỳ diệu của đời sống của họ là đức tin. Và đức tin không chỉ dành cho con người mà là sự tồn tại của chính Họ. Nếu Họ, Chúa Jesus, thánh Ala, Đức Phật... không làm cho con người có đức tin thì Họ là những người thất bại đầu tiên.
Khi tất cả con người trên thế gian này không còn đức tin thì hoặc Họ không còn lý do gì để hiển hiện trong một hình thức nào đó trên thế gian này nữa hoặc Họ phải dời đến một một nơi chốn nào đó trong vũ trụ.
Thượng đế đã mở sẵn lối đi đến Thiên đường và đã mách bảo chúng ta hàng ngày mà chúng ta không hề nghe thấy. Và bi hài thay, có không ít những người Thiên chúa giáo, những người Hồi giáo và những Phật tử lại luôn luôn tranh giành quyền sở hữu Thiên đường như một quyền lợi cho nhóm của mình. Đấy chính là sự lạc đường và suy tàn của chúng ta. Và đấy là nguyên nhân sinh ra những cuộc chiến tranh tôn giáo ngập tràn máu chảy và sự hận thù. Đấy là một tội lỗi kinh khủng nhất bởi có những người, hay những nhóm người lợi dụng sự sợ hãi, lợi dụng lòng tin một cách ngây thơ của con người, lợi dụng bản chất huyền diệu của tôn giáo để thoả mãn những dục vọng của mình.
Chúng ta đang mắc một sai lầm khi nghĩ rằng chỉ khi mình trở thành con chiên của Chúa, của thánh Ala hay là đệ tử của Đức Phật thì chúng ta sẽ được Họ ban phước. Tôi hoàn toàn tin có một Đấng Tối Cao mà Chúa Jesus, thánh Ala và Đức Phật là hiện thân của Người trên thế gian này để khai mở tâm hồn con người và cứu vớt con người. Họ không phải những Người phân chia quyền lực và lôi kéo con người trên thế gian về phe mình. Nhưng hiện thực của thế giới tôn giáo đặc biệt trong đời sống hiện đại đã đi ngược lại bản chất tinh thần tối thượng của nó.
Nhưng trong đêm khuya khoắt này, cho dù tôi đang viết những lời đầy buồn bã và thất vọng này thì trên thế gian chúng ta có bao ngôi nhà ấm áp và lấp lánh ánh lửa. Ở đó, có biết bao người đang nói với nhau về những điều tốt đẹp và huyền diệu của đời sống. Và có biết bao đưa trẻ đã lên con tàu trong cơn mơ của chúng để đến với miền đất kỳ diệu. Để sáng hôm sau thức dậy, chúng mang một niềm tin bất diệt về những điều kỳ diệu mà chúng đã được ban phước. Chúng sẽ mang theo đức tin ấy để từng ngày xây dựng một thế giới tốt lành trên thế gian còn quá nhiều bóng tối và máu chảy của chúng ta.
Giáng sinh, 2009.
Phụ lục cho bài viết: Trường ca: Nhân chứng của một cái chết (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1999, khúc 14, 16, 19) Khúc mười bốn Trong mưa đêm và mây đen tôi nhìn thấy ngôi sao. Bền bỉ sáng, ngôi sao từ thuở tôi sinh ra cho tới đêm này. Không gần hơn không xa hơn, ngôi sao, và không bao giờ tắt. Sáng bền bỉ trong mây mù như con mắt không chớp, nhìn tôi. Gió thổi suốt tháng năm qua ngôi nhà của tôi. Ngôi nhà như lễ đặt tên, như lễ xưng tội, như một bằng chứng. Chiếc dây phơi căng qua sân ám ảnh và tuyệt vọng trong những đêm tháng Chạp. Ở đó, một chiếc áo chưa khô, bị bỏ lại, than khóc vì sợ hãi suốt đêm. Ở đó, một con thạch sùng đã liều lĩnh băng qua và lạnh cóng bốn bàn chân. Ở đó, một con chim không chịu nổi cơn buồn ngủ ngã nhào xuống. Ở đó trong một đêm âm u, hoang vắng, tôi đứng như một thân cây tối thẫm. Tinh thần tôi bay lên để nhìn ngôi sao rõ hơn. Và đêm này, trên ban công ngôi nhà, trong rền rĩ mưa. Tôi ngước về chốn xa xăm, xúc động tràn nước mắt. Vẫn nơi đó, không hề suy chuyển ngôi sao toả sáng. Ngôi sao không hề sáng hơn trong những đêm mùa hạ trong trời. Ngôi sao không mờ hơn trong mây mù và những đêm mưa như đêm này. Chỉ tôi đã lớn lên và nhiều hơn khoảnh khắc bất động. Những ngón tay tôi mờ dần đi trên những bức tường. Và giọng nói tôi vọng đến một chốn xa xăm. Và bánh xe của cỗ xe mơ mỗi ngày một quay nhanh và vang lên những tiếng nghiến như tiếng nức nở của một đứa trẻ. Một con đường tỏ dần trong tôi và ánh ngày rạng toả. Một bản nhạc trong lặng im tấu lên rộn rã. Một lễ hội toàn người lạ kéo tôi như đi lạc mất đường về. Đã có những tháng năm tôi trốn chạy. Nhưng ở đâu ngôi sao cũng mọc trước mặt tôi. Tôi đã từng giá lạnh, đã từng hoang vu, đã từng không trả lời được câu hỏi về số phận. Trong những đêm của năm tháng đó, tôi đứng một mình trên cánh đồng xứ sở sau những mùa gặt hái. Sương mù giăng như khói và mây mù che lớp lớp bầu trời. Tôi cất tiếng hỏi những ngôi mộ nhiều tuổi tác. Nhưng không một ngôi mộ nào cất tiếng trả lời tôi. Những ngôi mộ ngồi lặng im và suy nghĩ triền miên về sự sống và cái chết. Và tôi thấy tỏa về xa xăm ánh sáng ngôi sao. Tôi nghe thì thầm một giọng nói. Và thời gian năm tháng ấy đi qua tôi náo nức, và bí ẩn, và câm lặng một niềm tin. Đêm nay trong thị xã lẻ loi, đơn điệu, nước đang lặng lẽ dâng lên. Và lặng lẽ ánh sáng ngôi sao ngập tràn trong tôi. Và tôi lại mơ về bến bờ xanh tươi của đại dương đã chết. Khúc 16: Viết trong đêm mưa tôi gửi cho Người. Chưa bao giờ mưa nhiều đến thế. Có lẽ mưa kéo dài đến 100 năm. Và mấy trăm năm rồi không ai viết cho Người. Trong những đêm gần sáng tôi thấy Người đi bên những đám mây hừng đông. Tôi không thể đến bên Người. Nhưng giọng tôi thì Người nghe thấy. Trái đất giờ này quá suy nhược. Sự mệt mỏi bò lên đỉnh sợi tóc. Ngày già đi quá nhanh và đêm nào cũng lạnh thấu xương. Chúng tôi ngồi co ro trên Trái Đất trơ trụi và đang trôi mê sảng. Có ai đó trong chúng tôi cởi áo đốt lên đống lửa. Và ai đó cất tiếng khóc nguyện cầu. Tiếng hát loang đi như tiếng cổ xưa. Dọc những triền sông về thượng nguồn. Nơi bầy thú rừng lang thang đói khát và mệt mỏi. Chúng tôi sinh ra và có lẽ nào tàn lụi. Ôi thế kỷ này răng hàm chúng tôi lại mệt mỏi rã rời. Một thế kỷ thực phẩm còn mệt mỏi hơn. Sao chúng tôi phải gánh theo cơn đói. Để suốt đời chúng tôi phải nấu nhừ ngũ cốc và chọc tiết súc vật. Sao chúng tôi không là những đám mây, bay thanh thản mọi nẻo đường vũ trụ. Sao da thịt chúng tôi lại thế này. Thật không thể tin vào mắt mình được nữa. Sao mắt chúng tôi lại cứng dần và biến thành những viên sỏi. Tai chúng tôi ngứa ngáy mọc lên nấm độc. Lưỡi chúng tôi hóa thành đầu rắn. Và trái tim hóa trái cây dại đầy nhựa chát. Có phải đây là trò đùa hay sự trừng phạt của Người? Đêm mỗi lúc lạnh thấu xương. Chúng tôi cởi áo nhóm lên ngọn lửa. Và chúng tôi không ai bảo ai cùng cất lên tiếng hát. Người nghe thấy chăng tiếng hát đầy sợ hãi. Đấy chính là lời cầu nguyện của chúng tôi. Khúc mười chín Mưa vẫn rì rầm bay Về những nơi bóng tối còn phủ đầy Trong đáy sâu của nước Chiếc xe bò yên nghỉ Phía trên những đám cỏ bồng bềnh trôi Con bò đã thoát khỏi ách xe Nước đẩy nó ra quảng trường thị xã Nơi có những ngọn đèn trong nước Như con ngươi của người mù Cố ngước lên tìm đường Để thoát khỏi đám đông gào thét Linh hồn con bò đã bay lên Nhưng cặp sừng của nó quá nặng Và người đánh xe Chưa dứt cơn say Rúc đầu vào thùng xe Mơ con bò sinh ra một chú bê Mưa vẫn rì rầm bay Tất cả giờ rơi vào lặng câm và bóng tối Và lúc này câu cầu hiện lên Trong cái chết của thị xã Cây cầu vụt lên như ánh sáng Ánh sáng từ thị xã ra đi Hay từ chốn xa xăm rọi về Từ trong thị xã ngập nước Họ đi lên cầu Một người đàn ông và một người đàn bà Cả hai không mảnh vải che thân Như vừa sinh ra Họ ướt át và run rẩy Đến giữa cầu họ dừng bước và quay lại Họ nhìn thị xã Và hai mắt họ Hai cửa sổ bị phá toang Họ không chạy trốn cơn thịnh nộ của trời xanh Họ chỉ đi lên cao hơn Để nhìn rõ toàn bộ thị xã Họ là những kẻ may mắn chăng? Không! Họ chỉ là những kẻ phải sống Để chứng kiến cảnh này Họ đứng lặng im Trong ánh sáng một cây đèn trên cầu còn sót lại Mưa vẫn rì rầm bay trên đầu Mang theo tiếng hát nguyện cầu và nỗi sợ hãi của họ Họ đứng lặng im Nhớ về những giấc mơ Trong những ngôi nhà đầy bụi Và trên những con đường Chạy ra ngoại ô Đầy phân bò và đá Nơi họ đã băng qua Để khóc một mình trên cánh đồng Liền với chân trời những đêm tối Rồi vội vã trở về thị xã Vào lúc rạng đông Mưa rì rầm bay Và mất dần về bóng tối phía xa Một ngôi sao trên đầu Vẫn lặng lẽ theo dõi họ Và lúc này Họ không còn khóc than Không còn tuyệt vọng Không còn dày vò Về những năm tháng đã đi qua Họ chỉ đang hình dung Con đường sẽ dẫn họ về thị xã Trong buổi bình minh Của một ngày Chủ nhật. Hà Đông - mùa đông 1998 |
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiBệnh sùng bái thần tượng và sự rối loạn của giáo dục
05/04/2019Hư học hư làm, hư tài
16/04/2014Có khi bi quan khi nhìn vào thực trạng văn hóa
12/04/2016Hồng Thanh Quang (thực hiện)7 nguyên tắc sống bất di bất dịch của Đại bàng
24/12/2015Bài học cuộc sống từ "Vua hề Sác-lô"
07/12/2015