Các lý thuyết về hành động xã hội
Song đề xã hội học
Có một thực tế trong lịch sử xã hội học là các nhà nghiên cứu của bộ môn này bị mắc vào một số song đề (dilemma), những song đề đôi khi trùng lặp nhau đôi khi tách rời nhau, chúng tạo cảm hứng cho những khổ công tìm tòi và cũng gây nên những tranh luận lớn. Một trong những song đề ấy là sự đối lập giữa việc nhấn mạnh vào cấu trúc xã hội hay nhấn mạnh vào hành động xã hội. Thậm chí người ta còn nói rằng có hai xã hội học: một ưu tiên đặt cấu trúc xã hội lên trên (cấu trúc luận), một xem các hệ thống xã hội là sự sáng tạo của con người (các lý thuyết hành động hoặc tương tác).
Những quan điểm như thế quyết định đến việc hiểu đối tượng của bộ môn.
Định nghĩa và khái niệm
Đối tượng của xã hội học là hành động xã hội
Hiện thực xã hội là khách thể
Hành động xã hội là sự trao đổi trực tiếp giữa các cá nhân cũng như các khuôn mẫu quan hệ được cấu trúc hóa bên trên các nhóm, tổ chức, thiết chế và xã hội. Một thực tế có thể quan sát được trong mọi tình huống cá nhân và công cộng hàng ngày là hành động xã hội của con người diễn ra
Cơ sở triết học và nhân học của hành động xã hội
Thời cổ đại đã phát triển những suy nghĩ triết học và nhân học về "bản chất xã hội" của con người như là cái bản chất thứ hai, nhưng mang tính quyết định. Như vậy, cơ sở triết học để xã hội học xem hành động của con người là hành động xã hội chính là dựa trên quan điểm triết học về bản chất xã hội của con người. Trong luận đề 6 về
Triết học nhân học xem con người không phải sản phẩm của bản năng mà là sản phẩm của thiết chế, "cái được xem là bản năng ở động vật, là cái được xem là thiết chế ở con người". Con người có một động lực cao trong việc sáng tạo ra văn hóa, nó không hành động
Ba khái niệm nền tảng của hành động xã hội
Để hiểu được nền tảng của hành động con người, xã hội học đề xuất ba khái niệm cơ bản: "ý nghĩa”, “chuẩn mực” và "giátrị”. Cùng với khái niệm hành động xã hội, ba khái niệm trên đồng thời là những thành phần tiên nghiệm của xã hội học, tức là đằng sau nó không còn gì để hỏi nữa.
Ý nghĩa
Weber là người đã đưa "ý nghĩa" trở thành một khái niệm cơ bản trong "xã hội học thấu hiểu của mình. Ông sử dụng khái niệm ý nghĩa để làm rõ tính đặc thù của hành động con người.
Khái niệm "ý nghĩa” bao hàm những cơ sở sau. Thứ nhất, ý nghĩa giúp tạo ra một hình thái đặc thù cho sự cảm nhận, sự cảm nhận này làm cho hành vi của người khác trở nên có ý nghĩa và có thể hiểu được. Thứ hai, thông qua và vượt quá một tình huống hành động cụ thể, nó cho phép nhìn vào nền văn hóa mà nó thể hiện (văn hóa: mối quan hệ giữa các chuẩn mực và giá trị của một hệ thống xã hội).
Chuẩn mực
Khái niệm chuẩn mực có nguồn gốc từ tiếnglating, có nghĩa là quy tắc, sợi chỉ xuyên suốt. Người ta thấy chuẩn mực có trong đạo đức
Trong lĩnh vực hành động xã hội, chuẩn mực là những quy tắc ứng xử được quy định rõ ràng, chúng tạo ra sự tiêu chuẩn hóa, điều khiến cho việc lặp lại các hành động và do đó các kỳ vọng hành động trở nên có thể tồn tại được. Giống như hành động xã hội, đối với xã hội học, chuẩn mực xã hội là một thành phần khái niệm tiên nghiệm của xã hội học. Nói cách khác, khái niệm chuẩn mực xã hội không thể được rút ra từ bất kỳ một khái niệmnào khác, nó thể hiện một hiện tượng tốinguyên thuỷ của cái xã hội.
Các chuẩn mực thể hiện rất đa dạng, có thể hệ thống hóa chúng
Giá trị
Giá trị là các nguyên tắc cơ bản định hướng hành động. chúng là những quan điểm. thái độ về những điều được mong muốn, về những quan niệm dẫn dắt trong văn hóa, tôn giáo, đạo lý và xã hội. Những định hướng giá trị thống trị trong một xã hội là khung cơ bản của văn hóa. Với tính cách là những nguyên tử của đời sống xã hội, các chuẩn mực chỉ có thể vận hành khi các chuẩn mực quan trọng nhất đối với hành động xã hội được kết nối với nhau, khi chúng được theo đuổi như là "đầy giá trị" (quan trọng, đúng đắn, chân lý)theo một ý nghĩa có tính đạo lý. Giá trị là những "chỉ dẫn đạo lý" dẫn dắt hành động con người. Chúng biểu hiện các ý nghĩa và mục tiêu mà các cá nhân và nhóm gắn với hành động của họ.
Những tiên đề của xã hội học hành động xã hội
Dựa trên những khái niệm có tính tiên nghiệm trình bày ở trên, xã hội học hành động xã hội đưa ra một số tiên đề nghiên cứu có thể tóm tắt dưới đây. - Con người hành động trong các tình huống nhất định trên cơ sở của các ý nghĩa mà tự họ gắn vào các hành động của bản thân và của đối tác.
Khi đi vào các tình huống hành động cụ thể mỗi người đều đã có một tri thức hàng ngày được cấu trúc hóa trước đó. Thế giới trong đó chúng ta hành động đã là một thế giới văn hóa, được lý giải. Đối với chúng ta là một thế giới có một ý nghĩa cụ thể.
Hành động là một quá trình có tính lý giải, diễn ra một cách mới, khác đi với các đối tác hành động. Trong quá trình đó, các ý nghĩa cấu trúc hóa nên những kỳ vọng.
Mỗi cá nhân đều ở trong tình trạng "hiểu ý nghĩa".
Các cá nhân hình thành từ xã hội hóa, tức là từ việc được trang bị các chuẩn mực và giá trị.
Văn hóa là một hệ thống các chuẩn mực và giá trị mà con người có thể hiểu được nó và chịu sự dẫn đắt của nó.
Con người đi tìm kiếm ý nghĩa và các giá trị văn hóa dẫn dắt nó.
Các quan điểm và lý thuyết về hành động xã hội
Những đặc trưng của thuyết hành động phân biệt với thuyết cấu trúc
Trong một cách nhìn đơn giản hóa, các lý thuyết xã hội học phân thành hai hướng chính: quan điểm cấu trúc và quan điểm hành động xã hội. Một số lý thuyết
Xã hội học hiện đại có hai biến thể chính của kiểu xã hội học này: đó là tương tác luận biểu trưng và phương pháp luận thực hành. Tương tác luận biểu trưng giải thích hành vi con người và xã hội thông qua việc xem xét cách thức mà con người lý giải hành động của người khác, phát triển một tự quan niệm hay là tự hình ảnh về bản thân và hành động theo cách có ý nghĩa. Một số nhà tương tác luận biểu trưng thừa nhận sự tồn tại của cấu trúc xã hội nhưng cho rằng các cấu trúc này là có tính lỏng, thường xuyên biến đổi thích ứng với tương tác. Phương pháp luận thực hành không thừa nhận sự tồn tại của cấu trúc xã hội. Đối với nhà phương pháp luận thực hành, thế giới xã hội bao gồm những xác định và những sự phạm trù hóa các thành viên xã hội. Các ý nghĩa chủ quan chính là hiện thực xã hội. Công việc của nhà xã hội học là lý giải, mô tả, và trên hết là thấu hiểu cái hiện thực chủ quan ấy.
Nhà lý thuyết hành động khác với nhà xã hội học cấu trúc ở ba điểm: thứ nhất, họ chú ý đến tương tác vi mô hơn là toàn bộ xã hội. Thứ hai, họ không tán thành ý tưởng về một hệ thống xã hội có tính cố kết. Thứ ba, họ không cho rằng hành động con người chỉ đơn giản là sản phẩm của hệ thống xã hội bao quanh.
Các lý thuyết hành động không chỉ nói đến hành động. mà họ chủ yếu nói đến tương tác. Chính vì vậy mà đôi khi quan điểm hành động được gọi là tương tác luận. Nhà tương tác luận quan tâm tìm hiểu quá trình tương tác giữa các cá nhân với những giả định dưới đây.
Con người gán ý nghĩa cho các hành động của họ.
Ý nghĩa là khía cạnh trọng tâm của hành động.
Để hiểu hành động cần phải lý giải các ý nghĩa mà các tác nhân gán vào những hoạt động của họ.
Các ý nghĩa không phải là những tổng thể cố định, chúng phụ thuộc vào bối cảnh và sự tiến triển của chuỗi tương tác. Chúng được tạo ra, phát triển, cải biến, biến đổi trong quá trình tương tác thực tế. Như vậy, hiện thực xã hội được kiến tạo nên bởi tương tác gắn với sự biến đổi của các ý nghĩa.
Tự quan niệm. Trong tương tác, hành động của một chủ thể phụ thuộc một phần vào việc chủ thể đó lý giải cái cách mà các chủ thể khác nhìn và đánh giá mình. Vì vậy, tương tác luận chú ý đến ý tưởng về bản ngã: các cá nhân phát triển các “tự quan niệm", tức là bức tranh về bản thân. điều có ảnh hưởng quan trọng đến hành động của họ. Một "tự quan niệm" được phát triển từ các quá trình tương tác, bởi vì phần lớn nó là sự phản ánh của những phản ứng của người khác đối với mình. Các chủ thể có xu hướng hành động
Kiếntạo ý nghĩa.Khi nhà tương tác luận quan tâm đến những định nghĩa tình huống và bản ngã, họ cũng phải tính đến quá trình trong đó các định nghĩa này được kiến tạo nên. Câu hỏi ở đây là việc kiến tạo ý nghĩa đã diễn ra như thế nào trong quá trình tương tác. Điều này đòi hỏi phân tích cái cách mà các chủ thể lý giải hành động của người khác và đòi hỏi phải hiểu được việc lý giải đó của các chủ thể trong bối cảnh mà ở đó tương tác đã diễn ra.
Sự dàn xếp vai trò.Cả nhà cấu trúc luận lẫn tương tác luận đều công nhận khái niệm vai trò, nhưng họ hiểu khác nhau. Nhà cấu trúc luận xem vai trò là do hệ thống xã hội đem lại, con người đóng các vai trò của mình
Như vậy, tương tác luận tập trung vào quá trình tương tác trong các bối cảnh cụ thể. Mọi hành động xã hội đều là có ý nghĩa. Do đó chỉ có thể hiểu được hành động khi phát hiện ý nghĩa mà các chủ thể gắn vào hoạt động của họ. Các ý nghĩa chỉ đạo hành động, nhưng cũng hình thành nên từ hành động. Chúng không cố định, không phải được đưa từ bên ngoài vào một lần là xong, mà được kiến tạo và dàn xếp trong quá trình tương tác. Trong khi tương tác với chủ thể khác, một chủ thể phát triển nên một tự quan niệm, điều có một hậu quả quan trọng, bởi vì chủ thể có xu hướng hành động
Quan điểm hành động xã hội cho rằng đối tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên và xã hội có những khác biệt căn bản, do đó phương pháp và các giả định của khoa học tự nhiên không thích hợp với việc nghiên cứu con người. Đối tượng của khoa học tự nhiên liên quan đến các sự vật, để hiểu và giải thích chúng chỉ cần quan sát chúng từ bên ngoài. Các sự vật không có ý nghĩa và ý định, chỉ đạo sự vận động của chúng. Trong khi đó, con người có ý thức: suy nghĩ, cảm xúc, ý định, nhận thức về bản thân. Đá đó, hành động của con người là có ý nghĩa: họ định nghĩa tình huống, gán các ý nghĩa cho hành động của mình và người khác, lý giải và hành động trên cơ sở những lý giải đó. Nếu như hành động nảy sinh từ các ý nghĩa chủ quan, thì nhà xã hội học phải phát hiện ra những ý nghĩa này thì mới hiểu được hành động. Họ không thể đơn giản chỉ quan sát hành động từ bên ngoài, tạo ra một logic áp đặt từ bên ngoài để giải thích nó, họ phải lý giải logic bên trong chỉ đạo các hành động của chủ thể.
Các nhà hành động xã hội không cho rằng xã hội có một cấu trúc rõ ràng chỉ đạo cá nhân hành động
Quan niệm của Mác: con người sáng tạo lịch sử
Mác thường được xem là nhà cấu trúc luận và thực chứng luận, vì nghiên cứu củaông chủ yếu ở cấp độ vĩ mô, ông đặt cho mình nhiệm vụ khám phá những cấu trúc xã hội khách quan, ẩn ngầm bên dưới chi phối đời sống xã hội, và ông xem sự phát triển xã hội như là một tiến trình lịch sử - tự nhiên. Tuy nhiên, hiểu Mác như thế là không đầy đủ mặc dù không sai. Mác rất chú trọng đến cái mà ta có thể gọi là tiếp cận hành động xã hội, cả ở những luận điểm cũng như ở những công trình nghiên cứu cụ thể mà Mác đã làm.
Mác có một định nghĩa về xã hội như sau: "Xã hội - bất cứ dưới hình thái nào - là gì? Nó là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người". Khi phân tích diễn biến của Công xã
Trong một bức thư viết năm 1890,
Hành động xã hội trong quan niệm của Weber
Weber được xem là nhà xã hội học đầu tiên khởi xướng quan điểm hành động xã hội.
Weber thừa nhận sự tồn tại của các phạm trù như giai cấp, đảng phái, nhóm vị thế, quan liêu. Nhưng tất cả những cái đó đều được tạo nên bởi những cá nhân đang thực hiện hành động xã hội. Do đó,
Định nghĩa hành động xã hội
Theo quan niệm của Weber, một hành động xã hội là một hành động của một cá nhân mà có gắn một ý nghĩa vào hành động ấy, và cá nhân đó tính đến hành vi của người khác, bằng cách như vậy mà định hướng vào chuỗi hành động đó. Một hành động mà một cá nhân không nghĩ về nó thì không thể là một hành động xã hội. Mọi hành động không tính đến sự tồn tại và những phản ứng có thể có từ những người khác thì không phải là hành động xã hội. Hành động không phải là kết quả của quá trình suy nghĩ có ý thức thì không phải là hành động xã hội.
Weber cho rằng xã hội học cố gắng diễn giải hành động nhờ phương pháp luận về kiểu loại lý tưởng. Ông thực hành phương pháp này để xây dựng một phân loại học về hành động xã hội gồm bốn kiểu: kiểu hành động truyền thống được thực hiện bởi vì nó vẫn được làm như thế từ xưa đến nay, kiểu hành động cảm tính bị dẫn dắt bởi cảm xúc, kiểu hành động duy lý - giá trị hướng tới các giá trị tối hậu, kiểu hành động duy lý - mục đích hay còn gọi là kiểu hành động mang tính công cụ.
Cách giải thích hành động xã hội
Trước khi có thể tìm ra nguyên nhân của một hành động, cần phải hiểu được ý nghĩa mà chủ thể hành động đã gắn vào hành động đó. Weber phân biệt hai kiểu thấu hiểu. Thứ nhất, hiểu trực tiếp. Chẳng hạn, có thể hiểu được một người đang giận dữ bằng cách quan sát biểu hiện trên nét mặt chúng ta. Kiểu thứ hai là sự thấu hiểu mang tính giải thích. Nhà xã hội học, ở đây hiểu ý nghĩa của một hành động
Tuy nhiên,
Thuyết tương tác biểu trưng
Thứ nhất, con người hành động trên cơ sở các ý nghĩa mà họ gán cho các đối tượng và sự kiện hơn là hành động nhằm phản ứng lại với những kích thích bên ngoài như các động lực xã hội hay với những kích thích bên trong như các bản năng. Do đó, tương tác luận biểu trưng phủ nhận cả quyết định luận sinh học lẫn quyết định luận mang tính thiết chế xã hội.
Thứ hai, các ý nghĩa nảy sinh từ quá trình tương tác hơn là có ngay từ khi bắt đầu và định hình hành động tương lai. Các ý nghĩa được sáng tạo, cải biến, phát triển và thay đổi trong các tình huống tương tác hơn là được cố định và xác định trước. Trong quá trình tương tác, chủ thể không tuân thú một cách nô lệ các chuẩn mực được xác định trước. cũng không máy móc thực hiện các vai trò được thiết lập chính thức.
Thứ ba, các ý nghĩa là kết quả của những thủ tục lý giải mà các chủ thể thực hiện trong bối cảnh tương tác. Bằng việc đóng vai trò của người khác, chủ thể lý giải các ý nghĩa và ý định của người khác. Bằng cơ chế "tự tương tác", các cá nhân biến cải hoặc thay đổi các xác định của họ về tình huống, nhẩm lại các chuỗi hành động thay thế hay loại trừ nhau và cân nhắc những hậu quả khả dĩ. Như vậy, các ý nghĩa chỉ đạo hành động nảy sinh trong quá trình tương tác thông qua một chuỗi những thủ tục lý giải phức tạp.
Một số nhà tương tác luận cho rằng họ khác căn bản với những quan điểm hành động xã hội khác. Họ cho rằng cần phải nhìn xã hòi như là một quá trình tương tác không ngừng. bao gồm các chủ thể liên tục điều chỉnh và lý giải các tình huống với nhau. Trong đánh giá của nhà tương tác luận, các quan điểm xã hội học khác có xu hướng phác hoạ hành động như là một sự phản ứng máy móc với những câu thúc của hệ thống xã hội. Như vây. hành động được xem như là sản phẩm của các yếu tố bên trên và thông qua con người. Thay vì là kẻ sáng tạo ra thế giới xã hội của chính mình, con người lại được phác hoạ là kẻ phản ứng thụ động với những câu thúc bên ngoài. Hành động của họ bị định hình bởi những "nhu cầu” của hệ thống, bởi các giá trị, chuẩn mực và vai trò với tính cách là các phần tử của hệ thống. Không chấp nhận cách nhìn trên, Blumer nhấn mạnh rằng con người là những chủ thể tích cực, hành động trên cơ sở những ý nghĩa mà họ gán vào tương tác xã hội của họ. Đây là quá trình xã hội trong đời sống nhóm, nó tạo ra và xác nhận các quy tắc, chứ không phải các quy tắc tạo ra và xác nhận đời sống nhóm.
Nhà tương tác luận đồng ý rằng ở mức độ nhất định, hành động được cấu trúc hóa, được thường lệ hóa. Nhưng những hiểu biết về tương tác có trước đó chỉ là những chỉ dẫn
Một cố gắng tổng hợp của Parsons
Sự nghiệp nghiên cứu của Parsons có thể chia thành ba giai đoạn. Giai đoạn đầu đánh dấu bằng công trình "The Structure of Social Action" (Cấu trúc của hành động xã hội, 1937). trong đó ông cố gắng tổng hợp di sản của Weber,
Trong lý thuyết hành động tổng quát, parsons mượn quan điểm của
Khái niệm "khung tham chiếu hành động" giúp Parsons giải thích về trật tự xã hội:xã hội vận hành thông qua hành động xã hội, hành động xã hội được cấu trúc hóa, mangtính chuẩn mực, bởi những giá trì hình thành một cách tập thể trong xã hội. Con người là chủ thể, tìm kiếm việc tối đa hóa phần thưởng thông qua hành động. Hành động nhằm đạt được mục đích đó được thiết chế hóa vào một cơ cấu các vị thế và vai trò.
Tiến trình tư tưởng của Parsons minh họa cho sự chuyển dịch và tổng hợp của một xã hội học đi từ tiếp cận hành động đến hệ thống. Thoạt tiên,
Parsons đưa ra quan niệm "voluntarism", theo nghĩa như là những quá trình ra quyết định mang tính chủ quan của chủ thể, nhưng những quyết định này lại là kết quả của những câu thúc mang tính chuẩn mực cũng như của tình huống. Như vậy, hành động chủ động bao gồm các yếu tố cơ bản sau đây:
Chủ thể hành động là những cá nhân.
Các chủ thể
Chủ thể phát triển các phương tiện khác nhau để đạt mục đích.
Chủ thể đối mặt với những hoàn cảnh khác nhau, những hoàn cảnh gây tác động đến việc lựa chọn mục đích và phương tiện.
Chủ thể bị điều khiển bởi các giá trị và chuẩn mực tác động đến việc lựa chọn mục đích và phương tiện.
Từ lý luận hành động xã hội Parsons đi đến lý luận về hệ thống xã hội. Chủ thể được định hướng vào các tình huống bởi động cơ vàgiá trị, gọi là các phương thức định hướng.Có ba kiểu động cơ: nhận thức (nhu cầu thông tin). cảm xúc (cathectic, nhu cầu gắn kết mang tính cảm xúc), và lượng định (nhu cầu về sự đánh giá). Tương tự là ba kiểu giá trị: nhận thức (lượng định
Những phương thức định hướng khác nhau ở chủ thể tạo ra những kiểu hành động khác nhau.
Khi các chủ thể với những định hướng hành động nhất định tương tác với nhau, họ sẽ tạo ra những thoả thuận và khuôn mẫu tương tác, dẫn đến sự thiết chế hóa. Các khuôn mẫu được thiết chế hóa,
Hành động luận và can thiệp xã hội học: Alain
Mặc dù, ngay từ đầu lịch sử xã hội học đã , xuất hiện song đề cấu trúc đối lập hành động phản ánh hai khuynh hướng tương phản nhau trong xã hội học. song thuật ngữ hành động luận chỉ xuất hiện trong thập niên 1960 gắn với tên tuổi của Alain
Do sự phát triển của sản xuất và công nghệ, đặc biệt công .nghệ thông tin và viễn thông, xã hội hậu công nghiệp hoặc xã hội đã công nghiệp hóa phát triển đầy đủ có những khả năng chưa từng thấy trong việc sử dụng và chi phối quyền lực, dẫn đến khả nặng -"làm nên lịch sử" (một mệnh đề then chốt trong lập luận của Mác). Tuy nhiên,
Đó là thực địa xã hội học của nhà nghiên cứu.
Một cố gắng tổng hợp nữa của Giddens
Ciddens cố gắng khắc phục sự khác biệt giữa tiếp cận cấu trúc và tiếp cận hành động xã hội. Ông cho rằng thông thường các nhà lý luận hoặc đặt mình vào cấu trúc là tính chất câu thúc của chúng. hoặc vào hành động và ý nghĩa. Giddens chủ trương vùng nghiên cứu cơ bản của khoa học xã hội chẳng phải là kinh nghiệm của các chủ thể, cũng chẳng phải là sự tồn tại của một hình thái tổng thể xã hội nào mà là các thực tiên xã hội được xếp đặt qua không gian và thời gian (Giddens: 1984).
Luận điểm cơ bản của ông rất đơn giản: cấu trúc và hành động là hai mặt của một đồng xu. Cả cấu trúc lần hành động không thế tồn tại một cách độc lập chúng liên quan với nhau một cách sâu sắc. Hành động xã hội tạo nên cấu trúc, thông qua hành động mà cấu trúc được sản xuất và tái sản xuất, cấu trúc vừa hạn chế vừa là nguồn lực của hành động. Từ đó, Giddens đề xuất thuật ngữ "cấu trúc hóa". Để giải thích luận điểm của mình, Giddens lấy ví dụ về sự liên hệ là khác nhau giữa ngôn ngữ và lời nói.Ngôn ngữ thể hiện một cấu trúc các quy tắc phải tuân
Thay lời tạm kết: Những hàm ý thực tiễn
Xã hội học là một khoa học về xã hôi, vì thế mọi người ở mọi lĩnh vực và cấp độ hoạt động đều có thể và nên vận dụng vào cuộc sống, cho nên những hàm ý của mọi tri thức xã hội chắc chắn thể hiện ra ở mọi cấp độ. Trên giá nhiều cửa hàng sách, ta luôn thấy cả loạt những cuốn dạy ta hiểu cách sống (tức là cách quan hệ với người khác) trong hôn nhân và gia đình. trong thương trường và nơi làm việc. Người ta cũng dạy cả cách cư xử với chính bản thân mình nữa. Khi tư vấn cho ta, những tác giả ấy đề cập vấn đề từ cấp độ triết học đến những kỹ năng cụ thể. Đằng sau mọi phiên bản đa dạng của những cuốn sách kiểu ấy, cái
Điều đúng với cấp độ cá nhân thì cũng đúng với mọi cấp độ trên cá nhân: gia đình, tổ chức, cộng đồng, thiết chế, Nhà nước, dân tộc, loài người. Vì thực ra ở cấp độ nào dù lớn đến đâu thì đơn vị tác nhân vẫn là những cá nhân cụ thể.
Theo quan sát của tác giả bài viết, hiện nay nhiều chương trình giảng dạy và giảng viên môn xã hội học hoặc những lĩnh vực liên quan đến xã hội học vẫn dựa trên những mặc định tư tưởng và tập quán đã bị vượt qua trên thế giới từ vài thập niên trước (quá nhấn mạnh vào quy luật, cấu trúc tính tất yếu...). Về mặt học thuật, chỉ nói đến khía cạnh này thì hoàn toàn không phản ánh đầy đủ diện mạo tư tưởng xã hội hiện đại nửa sau thế kỷ XX. Quan trọng nữa là về mặt thực tiễn, thông điệp hàm ý (hoặc ẩn ngầm hoặc không có ý thức) của nó có xu hướng khích lệ người ta chỉ thấy một chiều những câu thúc, chấp nhận những tính tất yếu, cái xã hội khách quan và một diễn ngôn thông dụng hơn trong đời thường: định mệnh, số phận. Kết quả phụ kèm
Xã hội học hành động xã hội giúp ta chú ý và nhấn mạnh đến một chiều cạnh khác của hiện thực xã hội đối lập với hệ tri thức mà tôi tạm gọi là hệ tri thức chức năng- cấu trúc - tiến hóa. trong hiện thực xã hội của xã hội học hành động, có một không gian rộng lớn dành cho chủ thể sáng tạo. Điều này rất quan trọng cho những con người đang sống trong những xã hội biến đổi nhanh: nó chỉ cho họ thấy rằng người ta có thể tạo nên tương đối nhanh chóng những cấu trúc xã hội hoàn toàn mới bằng hiểu biết và hành động xã hội. Không phải con người bị giam hãm trong những cấu trúc, thụ động chờ đợi cấu trúc "tự tiến hóa", mà cấu trúc là sản phẩm của hành động con người, hoàn toàn có thể và chỉ có thể "bị" thay đổi duy nhất bởi chính hành động con người.
Xã hội Việt
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường