Tính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn trong nhận thức chân lý
Triết học Mác - Lênin đã khẳng định tiêu chuẩn khách quan, duy nhất để xác định tính chân lý của tri thức, của sự nhận thức con người là thực tiễn, là hoạt động nhằm cải tạo và biến đổi thế giới của con người. Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan của chân lý, song tiêu chuẩn thực tiễn đó vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối vớitính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn là thế nào và nó có quan hệ ra sao với tính tuyết đối của tiêu chuẩn thực tiễn - đó là vấn đề mà chúng tôi muốn đề cập đến trong bài viết này.
Khi nói đến thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức chân lý, điều đó cũng có nghĩa khẳng định nhận thức con người là một quá trình, quá trình đó không tách rời thực tiễn. Hay nói cách khác, chính trong hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn con người nhận thức hiện thực khách quan, không có thực tiễn thì cũng không có quá trình nhận thức. Giới tự nhiên là đối tương là khách thể của nhận thức. Giới tự nhiên có trước là cái quyết định nhận thức và như vậy nội dung của nhận thức không thể là cái gì khác hơn là hình ảnh của giới tự nhiên được ghi lại trong đầu óc con người. Giới tự nhiên quyết định nội dung khách quan của nhận thức do đó, hình ảnh của thế giới trong đầu óc con người có nội dung khách quan. Hình ảnh ấy chỉ náy sinh và đần dần phát triển trên cơ sở của sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thề, và trong mối quan hệ đó sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể đóng vai trò là cơ sở của nhận thức, không có cơ sở đó, không có bất kỳ nhận thức nào. Sư nhận thức của loài người ngày càng phát triển phong phú và đi sâu vào thế giới khách quan, nó phụ thuộc vào quá trình và trình độ con người tác động vào thế giới khách quan, phụ thuộc vào năng lực hoạt động thực tiễn của con người. Nghĩa là, nhận thức của con người không bao giờ tách rời thực tiễn, nhận thức của con người chỉ có ý nghĩa khi nó được ứng dụng vào thực tiễn nhằm thúc đẩy thực tiễn. Bởi vậy, thực tiễn được coi là mục đích của nhận thức. Trong mối quan hệ giữa thực tiễn và nhận thức, thực tiễn càng phát triển càng thúc đẩy nhận thức của con người tiến lên, do đó thực tiễn, hoạt động thực tiễn của con người chính là động lực cửa nhận thức con người.Do vậy, thực tiễn ở đây là tuyệt đối, khách quan, là cái có trước so với nhận thức con người. Tính tuyệt đối này của tiêu chuẩn thực tiễn trong nhận thức chân lý thể hiện lập trường duy vật của các nhà triết học khi xem xét mối quan hệ giữa cái vật chất và cái tinh thần. Điều này đã được V.I.Lênin chỉ rõ:" Đương nhiên, sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn chế, trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước và cái gì là cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối”.
Vậy, tính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn trong nhận thức chân lý là gì? Nó được hiểu
Trước hết, thực tiễn là một quá trình. Trong mỗi một giai đoạn cụ thể, sự vận động của sự vật, hiện tượng khách quan, dưới tác động của hoạt động thực tiễn của con người bộc lộ các mặt, các thuộc tính nhất định, trên cơ sở đó con người nhận thức và khái quát hoá thành chân lý.Bởi vậy, trong mỗi giai đoạn phát triển của hiện thực khách quan, tri thức của con người luôn phụ thuộc vào trình độ của hiện thực khách quan ở giai đoạn lịch sử cụ thể đó, và tính cụ thể của chân lý là với nghĩa đó. Bằng một hành động thực tiễn nào đó, con người có thể chứng minh một cái vì đó trong nhận thức của mình, song chỉ có trong quá trình luôn vận động, phát triển không ngừng của thực tiễn, con người mới có thể khẳng định được toàn bộ nội dung của nó. Về điều này, V.I.Lênin đã chỉ rõ: " Dĩ nhiên không nên quên rằng tiêu chuẩn thực tiễn, xét về thực chất, không bao giờ xác nhận hoặc bác bỏ một cáchhoàn toànmột biểu tượng nào đó của con người, dù biểu tượng ấy là thế nào chăng nữa. Tiêu chuẩn đó cũng khá " không xác định" để không cho phép các hiểu biết của con người trở thành một cái "tuyệt đối", đồng thời nó cũng khá xác định để có thể tiên hành đấu tranh quyết liệt chống tất cả các thứ chủ nghĩa duy tâm và bất khả tri.
Tính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn còn được hiểu
Điều này đã được chứng minh trong lịch sử vào thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh, bằng việc nghiên cứu xã hội tư bản, C.Mác đã tìm ra các quy luật và vai trò của các yếu tố cấu thành xã hội đó.
Như vậy, chân lý phản ánh quá trình vận động, phát triển của hiện thực cũng có tính lịch sử - cụ thể. Mỗi một giai đoạn trong quá trình đó, chân lý chỉ phản ánh được một mặt nào đó của hiện thực khách quan. Không thể lấy thực tiễn của giai đoạn sau đề chứng minh cho chân lý của giai đoạn trước. V.I. Lênin đã phê phán sự lẫn lộn này như sau: "Chẳng hạn, Bôgđanôp đồng ý thừa nhận rằng lý luận của Mác về lưu thông tiền tệ là một chân lý khách quan nhưng chỉ là chân lý khách quan "đối với thời đại chúng ta" mà thôi, và ông ta cho rằng gán cho lý luận đó một tính chân lý "khách quan siêu lịch sử", tức là sa vào "chủ nghĩa giáo điều”... Đây lại là một sự lẫn lộn nữa. Vì cái lý do cũng giản đơn như cái lý do khiến việc Napôlêông chết ngày
Khẳng định tính có giới hạn về lịch sử của hoạt động thực tiễn không có nghĩa là phủ nhận tính tuyệt đôi của chân lý. Tri thức phản ánh giai đoạn trước của hiện thực khách quan là chân lý, nhưng nó chỉ là chân lý tuyệt đối ở giai đoạn đó, còn trong giai đoạn mới của hiện thực khách quan, nó chỉ là chân lý tương đối. Bởi vậy, để tránh
Ngoài ý nghĩa về thời điểm, tính tương đối của tiêu chuẩn thực hiện còn có thể hiểu
Ngoài tính tương đối được hiểu
Thực tiễn của một phạm vi, một lĩnh vực nào đó chỉ là tiêu chuẩn khách quan cho chân lý ở lĩnh vực, phạm vi đó. Không thể dùng thực tiễn ở phạm vi này để chứng minh cho chân lý ở phạm vi khác. Giới hạn của hoạt động thực tiễn trong một phạm vì cũng chính là tiêu chuẩn khách quan tuyệt đối cho chân lý của phạm vi đó .Xét theo một khía cạnh nào đó , thì mỗi một chân lý thuộc về một phạm vi nào đó của thực tiễn, nó phản ánh một mặt một khía cạnh nào đó của hiện thực khách quan để rồi với sự phát triển tiếp theo của thực tiễn, nó giúp cho con người đi sâu hơn vào quá trình tìm hiểu những bí mật của thế giới khách quan. Việc mở rộng phạm vi thực tiễn này cũng chính là việc nhận thức con người đi từ chân lý tương đối tới chân lý tuyệt đối thông qua hoạt động cải tạo, biến đổi hiện thực khách quan. Điều đó đã được V.I.Lênin khẳng định: "Con người không thể nắm bắt được = phản ánh = miêu tả toàn bộgiới tự nhiên một cách đầy đủ, "tính chỉnh thề trực tiếp" của nó, con người chỉ có thể đi gần mãiđến đó, bằng cách tạo ra những trừu tượng, những khái niệm, những quy luật, một bức tranh khoa học về thế giới…”. Sở dĩ con người "mãi mãi tiến đếngần chân lý tuyệt đối” là bởi lẽ,
Thực tiễn trong phạm vi rộng lớn hơn, bao chứa những phạm vi thực tiễn nhỏ hơn.Bởi thế, chân lý (có thể là chân lý tuyệt đối) ởphạm vi thực tiễn rộng lớn này có thể là tổng số các chân lý bộ phận, nhưng chân lý bộ phận đơn lẻ, riêng rẽ có thể chưa chắc đã trùng với chân lý bộ phận trong một phạm vi thực tiễn rộng lớn. Tính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn ở đây có thể hiểu
Vậy, làm thế nào để khắc phục những sai lầm đó? Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, muốn khắc phục những sai lầm trong nhận thức thì phải xem xét sự vật hiện tượng trong mối quan hệ toàn diện phải xác định rõ phạm vi của thực tiễn hình thành nên chân lý, phải tái lập lại thực tiễn đó trong các hoàn cảnh, phạm vi khác nhau để kiểm tra chân lý, không nên cứng nhắc, áp đặt từ một phạm vi thực tiễn này sang một phạm vi thực tiễn khác. Việc xem xét này cũng là một khâu trong quá trình biện chứng của nhận thức hiện thực khách quan, như Lênin khẳng định: "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cẩn phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật đó. Chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cẩn thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm phải sai lầm và sự cứng nhắc". Tính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn, xét
Trong sự nhận thức chân lý, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan của chân lý, nhưng có phải mọi thực tiễn đã là đủ để chứng minh chân lý? Ở đây, tính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn được hiểu theo nghĩa là hiện thực khách quan bộc lộ bản chất của nó ở mức độ nào và thể hiện thế nào qua mối quan hệ giữa sự chuyển hoá về lượng dẫn đến sự chuyển hoá về chất của hoạt động thực tiễn. Ở mức độ lượng, hoạt động thực tiễn mới chỉ phản ánh sự nhận thức hiện thực khách quan ở mức độ bề ngoài. Như vậy, không phải mọi hoạt động thực tiễn đã là tiêu chuẩn để đánh giá chân lý mà phải là hoạt động thực tiễn ở trình độ xác định. Sự phong phú về thuộc tính của sự vật, hiện tượng được bộc lộ ra dưới sự tác động của thực tiễn, song không phải sự bộc lộ nào của các mặt, các thuộc tính cũng là bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng đó. Hơn nữa, việc hình thành chân lý không phảo dựa vào mọi thực tiễn và logic được phản ánh trong chân lý cũng chưa chắc đã là sự phản ánh logic của sự vật, hiện tượng mà thực tiễn đã tạo nên. Tiêu chuẩn logic của chân lý được xây dựng trên sự công nhận tính không mâu thuẫn của tư duy là một yếu tố cần thiết của những hệ thống khoa học nhưng tiêu chuẩn logic không thể trở thành tuyệt đối thì chỉ có ýnghĩa tương đối. Phản ánh của giới tự nhiên trong tư tưởng con nghi phải được hiểu không phải một cách “chết cứng’, “trừu tượng”, không phải vận động không mâu thuẫn mà là trong quá trình vĩnh viễn của vận động của sự nảy sinh mâu thuẫn và sự giải quyết những mâu thaũan đó". Do vậy, tiêu chuẩn logic của chân lý, xét đến cùng, phải gắn với thực tiễn với tư cách là tiêu chuẩn khách quan duy nhất, là có ý nghĩa quyết định đối với việc xác định tính chân lý của nhân thức con người. Như vây, khi lấy thực tiễn để đánh giá chân lý phải xem xét trong tính cụ thể vê trình độ, về dạng thức biểu hiện của nó tránh quan điểm thực dụng, tầm thường hóa vai trò của thực tiễn.
Tính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn còn biểu hiện khác nhauu giữa hoạt động thực tiễn của một cá nhân so với hoạt động thực tiễn của cả một cộng đồng xã hội. Hoạt động thực tiễn của cá nhân không tồn tại tách biệt khỏi nhữ ng hoạt động thực tiễn của cộng đồng xã hội, nhưng nó có những đặc điểm riêng, bởi hoạt động thực tiễn của một cá nhân có tính chất chủ quan. Hoạt động thực tiễn của mỗi cá nhân riêng lẻ cũng có thể là tiêu chuẩn để đánh giá chân lý, nếu hoạt độngđó là sự thực hiện, thể hiện hoạt động thực tiễn của cả cộng đồng xã hội. Song, ngay cả hoạt động thực tiễn cửa cộng đồng xã hôi cũng không phải lúc nào cũng đã là tiêu chuẩn để đánh giá chân lý. Bởi thế giới khách quan là vô cùng tận, trong khi đó thì hoạt động nhận thức của một cá nhân riêng lẻ hay cả một cộng đồng xã hội trong một thời điểm nào đó lại có hạn, bị hạn chế bởi rất nhiều diễn biến và hoàn cảnh cụ thể. Bởi vậy, cần phải phân biệt rõ giới hạn này của hoạt động thực tiễn để tránh đi theo khuynh hướng của chủ nghĩa tương đối, hoặc coi chân lý là cái thuộc về số đông.
Thực tiễn là cái giúp cho con người rút ngắn tiến trình nhận thức hiện thực, bởi vậy việc xác định mức độ cần thiết của hoạt động thực tiễn là hết sức quan trọng. Theo quan điểm duy vật biện chứng, đề nhận thức sự vật đẩy đủ, ít sai lầm nhất, thì phải nhận thức sự vật trong mối liên hệ phố biến, trong sự vận động và phát triển, trong tính cụ thể: trong tính dầy đủ của sự vật đó. Do đó, việc lựa chọn điểm xuất phát cho hoạt động thực tiễn và tình trạng của sự vật để tác động thực tiễn vào nó là cái có ý nghĩa quyết định xác định mức độ hoạt động thực tiễn. Để đạt được điều đó cần phải lựa chọn đối tượng tác đông thực tiễn ở trạng thái phát triển đây đủ nhất: trong mối quan hệ với đôi tượng khác và tuân theo nguyên tắc lịch sử cụ thể. Điều này đã được Lênin khẳng định: "Toàn bộ tinh thần của chủ nghĩa Mác, toàn bô hệ thống chủ nghĩa Mác đòi hỏi là mỗi nguyên lý phải được xem xét theo quan điểm lịch sử gắn liền với những nguyên lý khác, gắn liền với kinh nghiệm cụ thể của lịch sử”.
Có thể nói, việc phân tích tính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn đem lại cho chúng ta một phương pháp luận không chỉ trong nhận thức mà cả trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Muốn nhìn nhận sự vật, hiện tượng một cách đầy đủ, ít sai lầm nhất, phải phân tích cụ thể, phải xem xét sự vật, hiện tượng trên quan điểm biện chứng, tức là xem xét trong mối liên hệ toàn diện của tiến trình vận động của sự vật, hiện tượng, không dừng ở hiện tượng bề ngoài, ở kinh nghiệm. Trong việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn môi hành đông thực tiễn đều phải căn cứ vào tình hình cụ thể của hoàn cảnh, chống máy móc, áp đặt, phải hành động phù hợp với tiến trìnhvà giai đoạn phát triển cụ thể của sựvật và phải dựa vào quy luật vận động và phát triển của sự vật.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường