Tìm nguồn gốc của quan niệm Đồng Bào

09:41 CH @ Thứ Sáu - 27 Tháng Năm, 2016

Người bạn gửi cho tôi bài báo trên tờ Sài Gòn Giải Phóng nhan đề Đồng bào là gì*và yêu cầu cho nhận xét.

Tác giả bài viết có biệt danh NGHÊ DŨ LAN tỏ ra là người hiểu biết, dẫn từ điển Thiều Chửu:

Bào là: (cái) bọc, anh em cùng một cha mẹ gọi là đồng bào (anh em ruột). Nói rộng ra, anh bố gọi là bào bá (bác ruột), em bố gọi là bào thúc (chú ruột). Người trong một nước cũng gọi là đồng bào, nghĩa là cùng là con cháu một ông tổ sinh ra vậy.” Rồi bình:

Cách giảng như Thiều Chửu (đồng bào: cùng là con cháu một ông tổ sinh ra) có lẽ dễ làm “vừa bụng” không ít người quen nghĩ rằng “đồng bào” là một từ do người Việt sáng tạo ra. Đơn cử là Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (bản sửa đổi lần cuối lúc 08:43, ngày 25-1-2007) viết như sau (http://vi.wikipedia.org/...): “Đồng bào là một cách gọi giữa những người Việt Nam, có ý coi nhau như con cháu của cùng tổ tiên sinh ra. Từ đồng bào được sử dụng dựa trên truyền thuyết Trăm trứng nở trăm con. [sic] Truyền thuyết kể rằng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ và sinh ra một bọc trứng và nở ra một trăm người con là dân tộc Việt Nam ngày nay.

Nếu hiểu lầm chỉ dân tộc nào vốn cùng từ một “bọc” của Âu Cơ đẻ ra mới được gọi “đồng bào” thì đương nhiên hai dân tộc Hoa và Khmer không thể gọi là “đồng bào”. Quan niệm này vừa sai, vừa nguy hiểm vì nó dễ đưa tới tinh thần phân biệt, kỳ thị (discrimination) làm phân hóa sự đoàn kết các dân tộc trong cùng một lãnh thổ quốc gia!

“Sự thật, người Việt đã vay mượn hai chữ “đồng bào” từ Hán ngữ, cho nên “đồng bào” không phải là một sáng tạo của người Việt dựa theo huyền sử một bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ như Wikipedia đã “tưởng tượng”! Ta dễ dàng thấy mục từ “đồng bào” trong các từ điển chữ Hán không do người Việt soạn, chẳng hạn:

1. Mathews’Chinese-English Dictionary (Shanghai: China Inland Mission and Presbyterian Mission Press, 1931), mục từ 6615-118 giảng là “uterine brothers; compatriots” (đồng bào huynh đệ là anh em một mẹ; người cùng một nước).

2. Từ điển Hán-Việt do Hầu Hàn Giang và Mạch Vĩ Lương cùng chủ biên (Bắc Kinh: Thương Vụ ấn thư quán, 1994, tr. 663)giảng đồng bào là: “anh chị em ruột”.

3. Chinese-English Dictionary Online (www.chinese-learner.com/dictionary) giảng là “fellow citizen or countryman”, tứcđồng bào là người dân cùng một nước.

Tóm lại, đồng bào đơn giản chỉ có nghĩa là người dân có cùng quốc tịch, là công dân của cùng một nước. Vậy thì nói đồng bào người Hoa, đồng bào người Khmer là hoàn toàn đúng, là xác định hai thành phần anh em trong đại gia đình Việt Nam gồm 54 thành phần mà ta thường gọi là 54 dân tộc.”

Tuy nhiên, từ khảo cứu của mình, tôi thấy như sau:

Từ hàng vạn năm trước, người Việt chủng Australoid đã sống khắp nơi trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử. Khoảng 5000 năm TCN, tại cao nguyên Hoàng Thổ miền trung Hoàng Hà, do người Việt tiếp xúc với người Mongoloid phương Bắc (những người cũng từ Việt Nam lên 40.000 năm trước nhưng do di cư riêng rẽ, giữ được nguồn gen thuần chủng, sau này sống tập trung trên đất Mông Cổ) sinh ra chủng Mongoloid phương Nam. Người Mongoloid phương Nam tăng nhân số, trở thành chủ thể của văn hóa trồng kê Ngưỡng Thiều, sau đó làm nên văn hóa Long Sơn nổi tiếng ở lưu vực Hoàng Hà. Vào thời điểm 4000 năm TCN, những thủ lĩnh người Việt là Phục Hy, rồi Thần Nông xuất hiện. Khoảng năm 2879 TCN xảy ra việc Đế Minh chia đất, phong vương cho con là Đế Nghi và Kinh Dương Vương. Nước Xích Quỷ ra đời. Dân cư Xích Quỷ gồm ba thành phần: người da đen Indonesian, Melanesian và người Mongoloid phương Nam nước da sáng hơn, tất cả đều có gốc từ tổ Phục Hy, Thần Nông, là người Việt với tiếng nói cùng văn hóa Việt… Là những người đánh cá và đi biển thành thạo, dân cư Xích Quỷ đã giao thương bằng thuyền tới Đài Loan, Indonesia, Philippine, Việt Nam và hiểu các vùng đất này. Câu chuyện Lạc Long Quân-Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng xuất hiện.

Trước đây ta chỉ biết nước Xích Quỷ huyền thoại. Năm 1936, các nhà khảo cổ Trung Quốc phát hiện văn hóa Lương Chử vùng Thái Hồ. Từ nguồn tư liệu khai quật phong phú, họ đưa ra kết luận: có nhà nước Lương Chử cổ đại, với kinh đô Lương Chử rộng 3.000.000 m2 còn ranh giới trùng khớp với địa bàn nước Xích Quỷ truyền thyết. Đó là nhà nước sớm nhất trong lịch sử phương Đông, trước nhà Hạ hàng nghìn năm mà chủ nhân là người Việt. Từ những vật khắc bằng ngọc cho thấy người Lương Chử được gọi là Vũ nhân hay Vũ dân, liên hệ với vật tổ chim- Hồng Bàng. Từ những khám phá này, có thể tin, nhà nước Lương Chử chính là Xích Quỷ trong truyền thuyết

Khoảng năm 2698 TCN, xảy ra cuộc xâm lăng của người Mông Cổ phương Bắc vào Trác Lộc ở bờ nam Hoàng Hà. Trong trận này, Đế Lai (văn bản Trung Hoa ghi là Si Vưu) tử trận còn Lạc Long Quân đưa đoàn quân dân vùng Núi Thái, Trong Nguồn dùng thuyền vượt biển đổ bộ vào Nghệ An Việt Nam. Người Mongoloid phương Nam trong đoàn di tản hòa huyết với người Việt chủng Australoid tại chỗ, sinh ra người Việt thời Phùng Nguyên. Sự thể như sau:

Theo xác nhận của nhân chủng học, trước thời Phùng Nguyên, dân cư Việt Nam gồm hai chủng Indonesian và Melanesian, cùng thuộc loại hình Australoid, được gọi là người Việt cổ. Người Mongoloid từ Núi Thái-Trong Nguồn theo Lạc Long Quân trở về lai giống với người Việt Nghệ An, sinh ra người Việt chủng Mongoloid phương Nam, được gọi là người Việt hiện đại. Cụ thể hơn, lai với người Indonesian, cho ra người Mongoloid phương Nam điển hình (người Mường, Mán, Dao, Nùng, Tày, Thái…) Lai với người Melanesian sinh ra nhóm loại hình Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam (người Chăm, Khmer, các sắc tộc Tây Nguyên…)

Do hình thành như vậy nên dân cư trên đất Việt Nam có chung tổ tiên là người di cư về cùng với Lạc Long Quân nên tất cả cùng suy tôn Lạc Long Quân là tổ, còn các sắc tộc (ethnicity) đều là con trong dân tộc Việt.

Quân Mông Cổ chiếm Nam Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế. Các vương triều Hoàng Đế lấn đất mở rộng lãnh thổ, dân Việt vùng lưu vực Hoàng Hà tiếp tục di cư về phía Nam. Khoảng 2.200 năm TCN, do nhà Hạ lấn chiếm, nhà nước Xích Quỷ tan rã. Người Việt từ nước Xích Quỷ di tản tới Ba Thục, Thái Lan, Miến Điện, Việt Nam, Đài Loan… Người di tản mang theo truyền thuyết một bọc trăm trứng tới nơi ở mới. Trên đất Ấn, truyền thuyết của người Việt đi vào kinh Phật.

Truy nguyên nguồn gốc như vậy, ta thấy, truyền thuyết Một bọc trăm trứngxuất hiện thời Xích Quỷ. Khi Xích Quỷ tan rã, bộ phận người Việt sống trên đất Trung Hoa vẫn giữ truyền thuyết nguồn gốc của mình. Các nhà nước Trung Quốc về sau tiếp thu truyền thuyết này. Nhưng do không hiểu ý nghĩa sâu xa của nó nên đã giảng theo thực tế dân cư Trung Quốc, phục vụ ý đồ chính trị, dù Trung Quốc có tới 5 chủng tộc khác nhau là Hán, Hồi, Mông, Mãn, Tạng thì họ vẫn dùng từ “đồng bào”. Khái niệm “đồng bào” của người Việt vốn chỉ mối quan hệ nội bào, đồng tộc, cùng tổ tiên, dòng giống, trên đất Trung Hoa trở thành khái niệm quốc gia: mọi chủng người trong một quốc gia đều được gọi là đồng bào! Nghĩa mở rộng này được ghi vào từ điển.

Các nhà soạn từ điển phương Tây thế kỷ XIX, XX, là những học trò về văn hóa hánHa1 Hán, hoàn toàn tin rằng, chữ vuông do người Trung Quốc sáng tạo, ghi chép những sự kiện lịch sử văn hóa Trung Hoa nên đã căn cứ vào tự điển Trung Quốc để soạn thảo từ điển của mình, như tác giả bài viết đã dẫn.

Cho tới cuối thế kỷ XX chưa ai khám phá ra thực tế bi hài là, nhiều khái niệm hay tiếng của người Việt cổ để lại trên đất Trung Hoa sau này bị hiểu sai. Một chứng cứ tiêu biểu là câu Lang bạt kỳ hồ, tái trí kỳ vĩtrong kinh Thi. Hơn 800 năm nay, các đại nho Hoa-Việt học theo Chu Hy, cho chữ “hồ” là cái yếm ở cổ con sói nên giảng: sói bước tớidẵm phải yếm, bước lui thì đạp phải đuôi. Do vậy câu thơ mang nghĩa là tiến thoái lưỡng nan. Bạn đã bao giờ thấy con sói có yếm thòng xuống ở cổ chưa? Thực tế con sói không bao giờ có yếm ở cổ cả. Ngay cả bò là loài có yếm nhưng cũng chẳng bao giờ yếm chùng xuống khiến nó dẵm phải khi bước đi! Sự thực, “hồ” vốn là chữ “hố” của người Việt, còn bạt do chữ “tạt”, “tụt” biến âm. Câu ca của người Việt vốn là: Sói tạt (tụt, ẩn nấp) vào hố, vẫn lòi cái đuôi.Nghĩa là dấu đầu hở đuôi! Mông Cổ là gì? Ít người biết rằng, từ xa xưa, người Việt ở Nam Hoàng Hà gọi vùng thảo nguyên phía bắc là Đồng Cỏ. Khi tràn sang chiếm đất bờ Nam, người du mục không nói được âm “Đ”nên đọc trại thành Mồng Cỏ. Tới thời Đường chuyển sang Đường âm thành từ vô nghĩa Mông Cổ! Trung Nguyên là gì? Vốn là tên người Việt gọi đồng bằng miền Trung của Hoàng Hà, thuộc châu thổ sông Nguồn của mình là Trong Nguồn. Sau nhiều biến đổi, tới thời Đường thì Trong -> Trung, Nguồn -> Nguyên. Mất đất và mất cả tên nên sau này con cháu Việt không hiểu câu Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra! Cũng như vậy, đồng bào vốn là tên gọi ban đầu của người Việt: cùng một bọc hay cùng bọc. Tới thời Đường được chuyển thành Đường âm: cùng -> đồng; bọc -> bào. Sau nữa, qua thời Thanh, quan thoại Bắc Kinh nói thủng pao.Trong khi người Quảng Đông nói tồng pào! Riêng tại đất gốc Việt Nam, người Việt vừa dùng đồng bào nhưng cũng nói một bọc!

Điều bi hài cười ra nước mắt ở đây là: chữ hay khái niệm đúng của người Việt, bị người Trung Quốc hiểu sai rồi ghi thành kinh điển. Kinh điển Tàu được chuyển thành kinh sách Tây! Ông cha ta xưa học Hán tự nên hiểu sai, bái phục các thầy Tàu uyên thâm: chữ thánh hiền có bao giờ sai! Con cháu bây giờ thông thái hơn, đọc được cả chữ Hán, chữ Anh, Pháp nên càng tin sái cổ những cái… sai rồi vênh vang đem về dạy (dọa) đồng bào mình. Lý lẽ chắc nịch hàng tấn: sách Tàu nói, sách Tây nói?!

Chỉ có Cụ Lạc Long Quân, Cụ Hùng Vương từ trên cao xanh nghe mà cười ra nước mắt: do vô minh nên cháu con tôn lũ dốt làm thầy rồi cúc cung học cái dốt!

Người Việt gọi người Hoa, Khmer, Chăm, E đê, Gia rai… là đồng bào theo quan niệm truyền thống, đó là những sắc tộc (ethnicities) cùng một huyết thống, cùng một bọc trong chủng tộc Mongoloid phương Nam của dân tộc Việt Nam.

Tháng Năm 2016

Ghi chú:

*) Bài "Đồng bào là gì?" http://www.sggp.org.vn/saigonthubay/2007/4/94382/

FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Không có cái gọi là “Từ Hán Việt”

    04/05/2019Hà Văn ThùyÝ tưởng tiếng Việt vay mượn tiếng Hán như cỏ dại lan rộng trên cánh đồng tư tưởng, thấm tới toàn bộ người có học Việt Nam hiện nay! Gần suốt thế kỷ, học giả Việt không một lời cãi lại...
  • Tiếng Việt có mơ hồ, thiếu chính xác?

    26/07/2017GS.TS Nguyễn Đức DânĐã từng có quan niệm “tiếng Việt là thứ tiếng của thi ca, tiếng Anh ­– thứ tiếng của thương mại, tiếng Pháp – thứ tiếng của ngoại giao”. Quan niệm xưa cũ này vừa khen lại vừa chê tiếng Việt: một thứ ngôn ngữ nhiều hàm ý thích hợp với đặc thù “ý tại ngôn ngoại” của ngôn ngữ thơ ca, nhưng cũng chính vì thế mà thiếu chính xác, mơ hồ trong diễn đạt.
  • Phải chăng tiếng Việt chỉ có 1200 năm lịch sử?

    13/10/2015Hà Văn ThùyTrong Hội thảo Việt học quốc tế lần thứ nhất tổ chức tại Hà Nội năm 1998, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn có tham luận nhan đề: “Thử phân kỳ lịch sử 12 thế kỷ của tiếng Việt.” ... Nhưng ở cuối tham luận, dường như không thực sự tin vào đề xuất của mình, tác giả thận trọng viết: “Cho đến đây chúng ta vẫn chỉ chuyên nói về 12 thế kỷ lịch sử của tiếng Việt. Vì tự đóng khung như vậy tất nhiên tư liệu sẽ hạn chế, không đủ để soi sáng một số vấn đề...
  • Lộn xộn tiếng Việt thời giao lưu văn hóa

    10/10/2015Vương Trí NhànVới một niềm tin dai dẳng, các phương tiện thông tin đại chúng ở ta thường không mệt mỏi trong việc nhắc nhở mọi người là phải giữ gìn bản sắc dân tộc, hoặc trong ngôn ngữ thì nhắc nhau là phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Vậy mà mọi chuyện cứ diễn ra theo hướng ngược lại, tại sao lạ vậy?
  • Dịch giả Cao Xuân Hạo: Giới trẻ đang học cái thứ gần 100%... không phải là tiếng Việt

    04/11/2012Chỉ thương cho những người Việt nhỏ tuổi sẽ bắt chước kiểu nói ngô ngọng giống mấy ông Tây học tiếng Việt 3 tuần mà quên dần những phương tiện diễn đạt trau chuốt, chính xác và tinh tế của tiếng mẹ đẻ, cho đến khi đọc Kiều hay thơ Xuân Diệu không còn chút khả năng rung đùi nào nữa - nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo đã phải thốt lên như vậy trước bi kịch ngôn ngữ Việt Nam hiện đại...
  • Tiếng Việt

    26/06/2011Lưu Quang VũTiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm
    Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về
    Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm
    Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre...
  • Làm phong phú và trong sáng tiếng Việt

    12/11/2010Nguyễn Trần BạtTôi cho rằng không có tiếng nước nào làm hỏng tiếng Việt cả, nó chỉ làm phong phú tiếng Việt mà thôi. Ví dụ, việc dịch các tác phẩm vĩ đại của nhân loại chính là một trong những cách thức làm phong phú tiếng Việt. Bởi vì các dịch giả phải tìm ra, phải tập hợp vốn từ ngữ và cách diễn đạt để có thể chuyển đổi ngôn ngữ từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt. Không chỉ trên lĩnh vực văn học mà còn nhiều lĩnh vực khác cũng vậy.
  • Tản mạn về Tiếng Việt

    03/06/2010Lê Tự Hỷ1. Có gì mâu thuẫn không khi ở Mỹ một thời gian thì lại đâm ra cảm thấy buồn khi đọc báo Việt in ấn xuất bản trong nước như Tuổi Trẻ, Thanh Niên,... mà cứ dùng nhiều tù tiếng Anh như: “tuổi teen”, ăn mặc rất “hot”, M.C này, M.C nọ,... ôi đủ thứ?
  • Tiếng Việt có chính xác không?

    22/08/2009Ngô Tự LậpCó một nhận định được lan truyền rộng rãi và hình nó cũng được nhiều người chấp nhận, cho rằng tiếng Việt không chính xác, hay nói đúng hơn, ngữ pháp tiếng Việt không chính xác bằng ngữ pháp tiếng Pháp, tiếng hoặc tiếng Nga..., tuỳ theo người đưa ra nhận định biết thứ tiếng nào. Theo tôi, nhận định nói trên phản ánh một định kiến, hay thậm chí là mặc cảm tự ti, rất không nên có.
  • Sách dạy tiếng Việt và tiếng Việt thật

    05/08/2009GS. Cao Xuân HạoĐến bao giờ sách giáo khoa tiếng Việt mới dạy thứ tiếng Việt mà hơn 70 triệu người Việt đang nói hàng ngày, chứ không phải thứ “tiếng Việt” giả tạo sao chép một cách máy móc từ sách cũ dùng để dạy tiếng Pháp cho dân thuộc địa?
  • Tiếng Việt - Những công lao bị quên lãng

    08/07/2009Cao Xuân HạoTrong lịch sử của ngành Việt ngữ học, ông là một trong những tác giả ít bị những định kiến "dĩ Âu vi trung" chi phối hơn cả, nhất là khi đem so với sách học tiếng Việt ngày nay. Kể cho đến bây giờ, ít có cuốn sách nào cung cấp cho ta nhiều thông tin về ngữ pháp tiếng Việt như mấy cuốn sách không lấy gì làm dày của ông. Trong mấy cuốn này không thiếu những phát hiện quan trọng mà ngày nay chẳng mấy ai nhắc đến, trong khi lẽ ra nó phải được những người đi sau tiếp thu và khai triển, đào sâu hơn nữa.
  • xem toàn bộ