Phát triển bền vững trên nền tảng sự đồng tiến hóa giữa con người và tự nhiên
Môi trường tự nhiên là điều kiện sốngvô cùng cần thiết và không thể thay thế đối với con người. Trong điều kiện hiện nay, khi mà vấn đề môi trường sốngđã trở thành một vấnđề toàn cầu, cả hai khuynh hướng hoặc là tuyệtđối hoá yêu cầubảo vệ môi trường đến mức cực đoan, hoặclà chỉ quan đến tăng trưởng kinh tế đều không đáp ứngđược nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại. Bởi phát triển bền vững, trongđó bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội mục tiêu bảo vệ môi trường, là sự lựa chọn đúng đắn và phù hợp với quyluật khách quan. Nền tảng của sự phát triển bền vững chính là dưa trên sự đồng tiến hoá giữa con người và tự nhiên.Triếtlý của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mácđã chỉrõ cơ sở hiện thực của chiến lược phát triển bền vững,nó không chỉ khẳng định vai trò của conngười, mà còn làm nổibật sư quy định lẫn nhau của lịch sử tự nhiên và lịch sử xãhội, sựđồng tiên hoá của con người và tự nhiên.
Môi trường tự nhiên đóng vai trò đặc biệt quan trọng và không thể thay thế đối với sự tồn tại, phát triển của con người cũng như của xã hội loài người. Điều này thể hiện trước hết ở chỗ, về mặt nguồn gốc, như các tài liệu khoa học đã chỉ ra, con người được sinh thành do sự tiến hoá lâu dài của tự nhiên chứ không phải là kết quả từ sự "nhào nặn" của một lực lượng siêu nhiên nào đó theo quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, con người với bộ óc biết tư duy sáng tạo của mình là sản phẩm cao nhất của sự tiến hoá trong nhiều triệu năm của vật chất, là "một cơ thể phức tạp nhất mà giới tự nhiên sản sinh ra được". Mặt khác, lịch sử xã hội loài người đã, đang và sẽ tiếp tục chứng minh rằng, tự nhiên là môi trường sống không thể thiếucủa con người. Chính vì thế, con người cần
Do ảnh hưởng và tác động của cách mạng công nghiệp vào đầu thế kỷ XVIII, đặc biệt là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ từ giữa thế kỷ XX, cho đến nay, sự phát triển của nền kinh tế thế giới đã có sự thay đổi sâu sắc cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Như chúng ta đã thấy, để thoả mãn nhu cầu vật chất ngày càng tăng của mình, con người đã tìm mọibiện pháp để thúc đẩy, mở rộng các hoạt động sản xuất và trong suất một thời gian dài, tăng trưởng kinh tế trở thành mục tiêu trung tâm, chiếm vị trí ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển của các quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, xét từ góc độ sinh thái học, dường như cái gọi là những thành tựu trong tiến trình chinh phục tự nhiên lại đang "chống lại" con người. Trên thực tế, ngày nay, con người đang phải gánh chịu sự "trừng phạt" của tự nhiên do những hành động thái quá, phiến diện của mình.
Thực vậy, do sức hút của nguồn siêu lợi nhuận thu được từ hoạt động khai thác tự nhiên cũng như đòi hỏi thoả mãn các nhu cầu vật chất ngày càng tăng của con người, hoặc cũng có thể do sự thiển cận, phiến diện của những chiến lược, chính sách phát triển kinh tế trước đây, con người đã cố tình hay cố ý không tính đến ngày mai của chính mình và lợiích của các thế hệ tương lai. Trước khi tiếng chuông cảnh tỉnh về những nguy cơ, thảm họa môi trường sinh thái được gióng lên, ở tất cả các nước, tuỳ theo trình độ phát triển, người ta tìmmọi cách để có thể khai thác tài nguyên một cách tối đa, không bận tâm đến những quả môi sinh, bất chấp lợi ích cũng quyền được hưởng những nguồn lợitự nhiên của các thế hệ tương lai.
Như chúng ta đã biết, trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình, con người với tính cách động vật biết chế tạo và sử dựng các công cụ lao động đã không ngừng giao tăng năng lực "chinh phục" tự nhiên. Với sự trợ giúp của các phương tiện lao động mới, đặc biệt là các tiến bộ khoa học công nghệ, con người đã tác động mạnh mẽ vào tự nhiên, sáng tạo nên những giá trị vật chất mới. Cùng với thời gian, với sự phát triển của đại công nghiệp và khoa học kỹ thuật, con người mải miết
Thực tế đó đã chứng minh rằng, cho đến nay, tiên đoán khoa học vượt trước thời đại của Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên vẫn giữ nguyên giá trị và có ý nghĩa vô cùng to lớn, đặc biệt là trong hoàn cảnh con người đang phải đối mặt với những vấn đề môi trường nảy sinh do sự sai lầm, cực đoan, thái quá trong tiến trình “chinh phục tự nhiên" của mình.
Vào khoảng giữa thế kỷ XX, trước thững nguy cơ, hiểm hoạ môi trường sinh thái, một khuynh hướng cực đoan - chủ trương giảm đến mức tối đa sự tác động của con người lên tự nhiên đã xuất hiện. Có thể nói, ý tưởng cho rằng có thể bảo vệ đượcmôi trường sinh thái bằng cách không tác động vào tự nhiên chỉ là một ảo tưởng, bởi con người không thể chấp nhận một hệ số phát triển bằng không.Về thực chất, đó chỉ là một cách phản ứng tiêu cực, một lựa chọn thể hiện sự bế tắc trong cuộc sống mà hoàn toàn không phải là lối thoát khôn ngoan, tiến bộ và văn minh.
Một khuynh hướng khác cũng hết sức sai lầm là quan điểm cho rằng, cần phải tăng trưởng kinh tế trước, từ đó mớicó cơ sở để thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường. Nói theo ngôn ngữ của y học, chấp nhận giải đáp "chữa bệnh" thay vì chủ động "phòng bệnh", tức là đi ngược lại với phương châm của y học truyền thống và hiện đại. Trên thực tế, dù đã được cảnh báo và chứng kiến những hậu quả to lớn về mặt môi sinh, song ở không ít quốc gia, đặc biệt là ở các nước chậm phát triển và đang phát triển, mục tiêu tăng trưởng kinh tế vẫn chiếm vị trí ưu tiên hơn so với mục tiêu bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Giải quyết công ăn việc làm, khắc phục tình trạng đói nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất cho con người cũng như xây dựng tiềm lực kinh tế cho đất nước... là những nhu cầu chính đáng và cấp thiết.
Nhưng, nếu vì thế mà chỉ coi trọng tăng trưởng kinh tế, tiếp tục bỏ qua hoặc xem nhẹ yêu cầu bảo vệ và cải thiện môi trường thì lại là một sai lầm với những hậu quả đã thấy trước. Có thể khẳng định rằng, nếu khuynh hướng này không sớm được điều chỉnh thì thay vì tạo nên một cuộc sống có chất lượng cao hơn, con người lại tạo ra những yếu tố để tự phủ định sự tồn tại, phát triển của chính bản thân mình. Điều đó cũng có nghĩa rằng, quan niệm coi phát triển trước hết và chủ yếu là tăng trưởng kinh tế đã không còn phù hợp và cần được thay đổi.
Rõ ràng, cả hai khuynh hướng: hoặc là tuyệt đối hoá yêu cầu bảo vệ môi trường đến mức cực đoan, hoặc là chỉ quan tâm đến tăng trưởng kinh tế đều không đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại. Trên thực tế, hai mục tiêu tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường dường như có sự mâu thuẫn.
Nhưng, con người cũng không thể chỉ lựa chọn hoặc là cái này, hoặc là cái kia. Trong điều kiện hiện tại, kết hợp, gắn liền mục tiêu tăng trưởng kinh tế với bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên nhằm tạo nên sự chung sống hoà bình, cùng phát triển giữa con người với tự nhiên là phương án hữu hiệu hơn, thực tế hơn, thể hiện sự khôn khéo, thông minh của con người.
Trước những bức bách của vấn đề môi trường sinh thái, cũng như sự lo ngại về triển vọng phát triển của con người trong hiện tại và tương lai, nhận thức về tự nhiên, về mối quan hệ giữa tự nhiên, xã hội và con người đã có những thay đổi căn bản. Thay vì coi tự nhiên là nguồn của cải vô tận và chỉ biết khai thác từ đó những gì có lợi cho mình như trước đây, con người ngày nay đã nhận ra rằng, tự nhiên là một thể thống nhất và sức chịu đựng của nó trước những tác động của con người không phải là vô hạn, rằng, bên cạnh việc sử dụng, khai thác tự nhiên, con người còn phải bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, phải "chung sống hài hòa" với tự nhiên.
Từ sau Hội nghị thượng đỉnh thế giới về Môi trường và phát triển họp tại
Có thể nói, tuy còn manh nha, chưa hoàn chỉnh hoặc ít nhiều còn mang màu sắc thần bí, song tư tưởng về mối quan hệ gắn bó, khăng khít giữa con người và tự nhiên đã nảy nở ngay từ thời cổ đại. Trong quan niệm của một số tôn giáo và học thuyết triết học phương Đông truyền thống, con người không đối lập với giới tự nhiên, mà luôn được coi là một thành tố, một bộ phận của giới tự nhiên. Nho giáo cho rằng, con người sống giữa trời đất, vạn vật nên quan hệ của con người với đất là quan hệ "thiên nhân cảm ứng”. Tương tự như vậy, Đạo giáo cũng coi trọng sự hoà hợp, thống nhất của con người trong quan hệ với tự nhiên, với vạn vật trong vũ trụ. Quan niệm về sự hài hoà của
Khác với phương Đông, ở phương Tây tồn tại khuynh hướng đề cao đến mức tuyệt đối hoá con người trong mối quan hệ với tự nhiên. Triết học Hy Lạp cổ đại tôn vinh vị trí và vai trò con người. Protagor coi con người là thước đo của vạn vật. Chủ nghĩa, duy lý thế kỷ XVII - XVIII đã nhấn mạnh rằng, con người là trung tâm của vũ trụ, là chúa tể của giới tự nhiên. Kitô giáo quan niệm thế giới và con người là sản phẩm của Chúa sáng tạo ra, con người là hình ảnh của Chúa nên con người cũng có khả năng sáng tạo và có quyền thống trị giới tự nhiên... Những quan niệm đó là cơ sở cho sự nảy nở và phát triển triết lý con người chinh phục theo kiểu "thống trị", "tước đoạt” tự nhiên trong suất một thời gian dài, để lạinhững hậu quả môi trường to lớn mà ngày nay, con người đang phải nỗ lực tìm cách khắc phục.
Với luận điểm nổi tiếng - triết học không chỉ giải thíchthế giới, mà còn cải tạothế giới, triết học Mác cũng không nằm ngoài truyền thống con người chinh phục tự nhiên của văn hoá Châu Âu. Tuy nhiên, cần phải thấy là, cái triết lý con người cải tạo thế giới và chinh phục tự nhiên của triết học Mác khác hẳnvới quan niệm truyền thống của phương Tây .
Như đã nói trên, hệ thống tự nhiên - xã hội - con người là một thể thống nhất. Bản thân giới tự nhiên cũng là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau, tồn tại và phát triển
Phải chăng, có sự mâu thuẫn trong tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen khi, một mặt,các ông khẳng định con người - với năng lực và sự sáng tạo phi thường của mình - có thể và cần phải cải tạo thế giới, trong đó có giới tự nhiên, mặt khác,lại cho rằng, sự tác động của con người vào giới tự nhiên có thể gây nên những hậu quả môi sinh nghiêm trọng không lường trước được?
Một trong những ưu thế làm nên sứcmạnh và cũng là điểm khác biệt quan trọng của con người so với các loài động vật khác là ở chỗ, con người biết tư duy, có thể nhận thức được các quy luật khách quan của tự nhiên và do đó, hành động ngày càng phù hợp với các quy luật ấy. Với quan điểm biện chứng và khoa học, Ph.Ăngghen khẳng định: "Sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được những quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật một cách chính xác". Nhờ có năng lực nhận thức và sử dụng được những quy luật của giới tự nhiên, con người có thể dự báo, tiên liệu được những hậu quả môi sinh chủ động định hướng và điều chỉnh hoạt động của mình.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, nhấn mạnh năng lực chinh phục giới nhiên của con người, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ hàm ý đề cập đến hoạtđộng mangtính tự giáccủa con người - hoạt động tiến hành trên cơ sở nhận thức được quy luật của tự nhiên, chứ không phải là những hành động mù quáng theo kiểu "thống trị", “tước đoạt", bất chấp quy luật nội tại, khách quan của giới tự nhiên. Triết lý của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về mối quan giữa con người và tự nhiên đã chỉ rõ cơ sở hiện thứccủa chiến lược phát triển bền vững mà ngày nay, con người đang hướng tới - đó là con người có thể nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và vận dụng chúng một cách tự giác, có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn, trước hết là trong hoạt động sản xuất vật chất của mình. Triết lý không chỉ khẳng định vai trò của con người mà còn làmnổi bật sự quy định lẫn nhaucủa lịch sử tự nhiên và lịch sử con người, sự đồng tiến hoágiữa con người và tự nhiên.
Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, cách nhìn nhận của con người về vai trò của tự nhiên đối với sự phát triển trong hiện tại và tương laicủa thế giới ngày càng hiện thực hơn, chính xác hơn. Con người, tự nhiên và xã hội với tích cách những tiểu hệ thống được xem xét trong một chỉnh thể thống nhất. Các yếu tố đó luôn có sự liên quan chặt chẽ và tác động lẫn nhau, chứ không phải chỉ có chiều con người, xã hội tác động đến tự nhiên. Giới tự nhiên cũng như con người nhìn nhận một cách biện chứng hơn.
Yêu cầu bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường còn được tiếp cận từ một góc độ khác - sự công bằng giữa các thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai về quyền được hưởng thụ những tài nguyên và sống trong môi trường trong sạch. Nhiều nhà khoa học ở
Do vậy, con người với tính cách một sinh vật phát triển nhất phải nuôi dưỡng một ý thức tôn trọng sự tồn tại của mọi khách thể khác thay vì sự ngự trị của thế giới quan cũ với quan niệm cho rằng, con người là chúa tể của muôn loài, có quyền năng vô hạn trước tự nhiên. Bởi vì, chính quan niệm cũ và niềm tin hết sức ích kỷ, sai lầmấy đã đưa con người tới những hành động thái quá, thậm chí là những hành động mang tính cực đoan đối với tự nhiên.
Môi trường là ngôi nhà chung mà tất cả mọi người, không phân biệt màu da, sang hèn, giàu nghèo...đều có lợi ích của mình ở đó, do vậy, tôn trọng tự nhiên, bảo vệ môi trường phải là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng và của toàn thế giới. Phát triển xã hội một cách bền vững và hài hoà trên cơ sở đồng tiến hoá giữacon người và tự nhiênlà cái đích mà thế giới đương đại đang hướng đến.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường