Phát giác về ngôn ngữ thân xác
Nếu như văn học hiện đại thế giới có công phát hiện ra ngôn ngữ văn tự, thì văn học hậu hiện đại hôm nay lại đang dần tước mất vai trò thống trị của nó.
Thân xác và nữ quyền
Trong các trào lưu nghệ thuật mới nhất, tự thân xác con người cũng có vai trò như một ngôn ngữ. Nó trở thành nguồn gốc của ngành nghệ thuật mới như kịch hình thể (Theatre of Images), nghệ thuật hình thể (Bodyart), nghệ thuật biểu diễn (Performance art)…
Phương thức biểu hiện này có được bệ đỡ của chủ nghĩa nữ quyền (Feminism) nghiễm nhiên đã biến thân thể phụ nữ thành phương tiện để sáng tác. Cuộc đấu tranh bình đẳng giới đã bắt đầu từ đấy, từ sự phát hiện ra thân thể phụ nữ, ý thức và quyền sở hữu nó của người phụ nữ để chống lại nỗi thống khổ và thân phận nô lệ hàng ngàn đời của họ trước nam giới. Nó bắt đầu ở phương Tây từ “cách mạng tình dục” (1968) và nhanh chóng lan nhanh ra toàn thế giới, tiêu biểu là “thân thể sáng tác” của các nhà văn linglei Trung Quốc.
Khi ngôn ngữ văn tự (language) thất thế thì ngôn ngữ tín hiệu (signal) và ngôn ngữ cử chỉ (body language) trỗi dậy. |
Tới Việt Nam sau khi đã đến với công chúng 29 ngôn ngữ khác trên thế giới, tiểu thuyết Syngue’ Sabour (Nhẫn Thạch- Nguyên Ngọc dịch) của nhà văn Pháp gốc Afghanistan - Atiq Rahimi (Giải Goncourt 2008) là một tuyên ngôn từ lời đề từ “từ thể xác qua thể xác cùng thể xác đến thể xác” đến những cảm nhận tình yêu, nhục dục của người phụ nữ. Nhà văn Nguyên Ngọc có lý khi ông cho rằng chiều sâu nhân sinh của tác phẩm là đã phát hiện ra bên cạnh cái đầu lý trí của đàn ông, thân xác của phụ nữ cũng phải có phần của nó trong lịch sử thế giới. Ngày 8-4 vừa qua, tại Hà Nội, các diễn giả Nguyên Ngọc, Đặng Anh Đào, Cao Việt Dũng nhiều lúc đã vượt qua chủ đề “Khát vọng sống - khát vọng yêu” của buổi tọa đàm đề nói về ngôn ngữ thân xác trong Nhẫn Thạch.
Tình dục - một giá trị văn học
Lịch sử Trung Đông của tác giả Nhẫn Thạch cũng có nhiều điểm tương đồng với chúng ta, đều nằm trên “hành lang văn hóa Đông-Tây”. Ở đấy, nếu con người bị đẩy vào những thái cực nghiệt ngã thì văn hóa lại có điều kiện phát triển, ở việc thâu thái và kết tinh văn hóa. Văn chương Trung Đông, với Orhan Pamuk, Atiq Rahimi, đã chuyển động cùng nhịp với thế giới. Thậm chí, riêng với vấn đề ngôn ngữ thân xác, Rahimi đã có đóng góp cho văn chương nhân loại.
“Trông người lại nghĩ đến ta”. Văn học Việt Nam nói chung và ngôn ngữ thân xác nói riêng hình chưa có tiếng nói.
Văn chương của ta chủ yếu vẫn là để “tải đạo”, khai thác thân xác thì hầu như lại chỉ ở khía cạnh gợi dục. Thân xác vì vậy vẫn bị lạm dụng, hoặc để minh chứng cho đạo đức, hoặc để kích thích bản năng tình dục trong con người.
Với Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu, hai tác giả đương đại tiêu biểu cho văn chương gắn với sex và yếu tố nữ quyền, chẳng hạn. Trong Cánh đồng bất tận, khát vọng tình yêu của cô gái điếm và sự từ chối chống đối bị cưỡng bức của Nương, biểu thị cho khát vọng tình yêu chân chính. Hay ước muốn làm mẹ và tình yêu nhục cảm trong thơ Vi Thùy Linh, người được coi là đại diện cho khuynh hướng giải phóng tình dục, thì vẫn nằm trong khát vọng dâng hiến của người phụ nữ. Thậm chí, I’m đàn bà của Y Ban vẫn chưa thoát khỏi quan niệm này. Người nữ osin trong tác phẩm dù đã chủ động ban phát tình yêu cho ông chủ mắc bệnh - thì đấy vẫn là “những tấm lòng cao cả” của người mẹ, người vợ. Ở Việt Nam, đạo Mẫu như một di truyền văn hóa thiên về tính nữ vẫn dai dẳng tồn tại. Nó đề cao vai trò của người phụ nữ nhưng tuyệt nhiên, ý thức về quyền tự trị của người nữ vẫn chưa hình thành. Thân thể người phụ nữ vẫn bị lệ thuộc vào đàn ông.
Tình dục trong sáng tác văn học vẫn là thứ tình dục bị - được ban phát - cưỡng đoạt. Tiếng nói nữ quyền nhập làm một với tiếng nói tố cáo hiện thực nói chung, cái xấu, cái ác tiên thiên. Ý thức về thân xác như một “vật tự nó”, một quyền lực trong cuộc đấu tranh bình đẳng giới chưa được văn học ta nhận thức một cách thấu triệt. Người ta chưa hình dung đến quyền năng của phái đẹp, về vai trò và quyền quyết định của họ trong tình yêu và quan hệ tính giao. Nó làm cho văn học nữ quyền VN chưa được phát triển với hết tiềm năng của nó.
Đó là một thiếu sót rất đáng tiếc. Vì vậy, phát giác về ngôn ngữ thân xác như ở Nhẫn Thạch, đang được giới thiệu rộng rãi là rất cần thiết và có ý nghĩa trong phát triển văn hóa, văn học.
Nhẫn Thạch lấy ý tưởng từ một huyền thoại Ba Tư về hòn nhẫn thạch ( hòn đá kiên nhẫn), ai đau khổ chỉ cần đặt hòn đá trước mặt rồi kể lể hết nỗi buồn đau riêng tư của mình. Bí mật ấy được chất chứa đến khi hòn đá bị nổ tung, người ta sẽ được giải thoát khỏi nỗi bất hạnh. Atiq Rahimi đã dựng lên câu chuyện thống thiết: Một phụ nữ Hồi giáo ngồi trong căn phòng của một thành phố bốn bề hỗn chiến tương tàn chăm sóc người chồng, một chiến binh trong chiến tranh, đang phải sống đời sống thực vật, vì một viên đạn găm vào gáy. Chứng kiến sự chết dần mòn của chồng, sự hỗn loạn của đời sống chiến tranh, sự u mê của con người và tôn giáo,… cô không chịu đựng được nữa, cô từ bỏ cầu kinh và bấu víu vào huyền thoại hòn đá ma thuật, coi người chồng là hòn nhẫn thạch của mình để tâm sự về tất cả nỗi thống khổ, những khát khao, những ẩn ức tình dục, những bí mật mà bấy lâu cô kìm nén, cất giấu… Đặt trong bối cảnh tiểu thuyết, tiếng nói ấy là “tiếng nói bị vùi nén từ hàng nghìn năm”. |
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiHư học hư làm, hư tài
16/04/2014Có khi bi quan khi nhìn vào thực trạng văn hóa
12/04/2016Hồng Thanh Quang (thực hiện)7 nguyên tắc sống bất di bất dịch của Đại bàng
24/12/2015Bài học cuộc sống từ "Vua hề Sác-lô"
07/12/2015Nếu lãng quên lịch sử
13/02/2014Nguyên Cẩn