Luyện nội công song song với học quyền cước
Trong thời gian qua thị trường sách dịch có nhiều chuyển biến tích cực, mà cụ thể là những cuốn sách, những bộ sách có tính chất công cụ đã và đang tiếp tục ra mắt. Bên cạnh đó là những tác phẩm kinh điển được biên soạn, dịch, chú giải, một cách công phu. Dù rằng sách kinh điển thì không phải dành cho số đông, nhưng chắc chắn một điều, nó đánh dấu những cột mốc quan trọng trong tiến trình nghiên cứu dịch thuật, giới thuật và giáo dục bách khoa tri thức của thế giới vào Việt Nam. Bằng cách dịch, chú giải công phu 2 cuốn sách kinh điển trong lịch sử triết học thế giới: Phê phán lý tính thuần túycủa I.Kant (NxbVăn học, 2004)và Hiện tượng học Tinh thầncủa Hêgen (Nxb Văn học 2006) và những cuốn khác đang hoàn thành… nhà nghiên cứu triết học, dịch giả Bùi Văn Nam Sơn đã góp công sức vào tiến trình chung đó.
Ông trao đổi cởi mở với bạn đọc Thể thao & Văn hóa.
Thời gian theo học và sinh sống tạiĐức hẳn có nhiều thử thách, cũng như thú vị. Ôngcó thể chia sẻ những kinh nghiệm cụ thể này với bạn đọcđược không?
Cảm ơn anh đã quan tâm đến một lĩnh vực và một việc làm "xa rời thực tế”. Về thời gian ở Đức của tôi từ 1968 đến nay, nếu "có thể chia sẻ kinh nghiệm", xin chỉ nói sơ về việc học. Khi tôi sang Đức, nói riêng về khoa Triết mà tôi được biết, Đại học Đức (và có lẽ ở Âu Mỹ nói chung) đã cải cách việc dạy và học từ lâu. Với tắm bằng "Cử nhân giáo khoa triết học Tây phương" (Đạihọc Văn hóa Sài Gòn) trong tay, với chút ít giáo trình và đôi quyển “Nhập môn" trong bụng, tôi bị bất ngờ vì không còn được hưởng sự êm ấm của cảnh “thầy đọc trò chép” quen thuộc. Bên cạnh đó, chỉ một số nhỏ các đại giáo sư, tầm cỡ “triết gia" mới "dám" đọc giáo trình, nếu không, chẳng ai thèm nghe. Hầu hết chương trình là những “xêmine", chia làm hai loại: "dự bị” và "chính" chẳng khác nhau là bao và ai dự cũng được, nên trình độ chênh lệch khiến "đàn em" thường phải dựa cột mà nghe. Họ làm gì trong các xêmine ấy? Học tác giả nào thì lật sách của tác giả ấy ra mà đọc! Không có nguyên bản thì đọc bản dịch đáng tin cậy. Đọc, chia phiên thuyết trình (hoặc soạn "biên bản" thảo luận nếu không có gan thuyết trình!) và… cãi nhau. Mà họ làm rất nhởn nha, kỹ lưỡng. Chẳng hạn, xêmine về quyển Hiện tượng học Tinh thầncủa Hegel được cả thầy lẫn trò quần nhau suốt một nửa học kỳ, nhưng vẫn chưa xong lời tựa. Còn cả ngàn trang nữa thì sao đây? Không sao hết! Cùng nhau đọc kỹ "Lời tựa " cái đã , anh (hay chị) còn cả đờ để tự đọc Hegel cơ mà.Tôi choáng váng với cách học ấy và suốt mấy năm trời nghe như vịt nghe sấm. Ước gì được như mấy ôngbạn người Nhật người Hàn Quốc có sẵn bản dịch và từ điển của tiếng nước họ, đỡ khổ hơn biết mấy! Từ đó, tôi rút ra hài "kinh nghiệm": Một, học triết thì nên đến thẳng với "Phật chứ không (hoặc chưa) nên thông qua các "nhà sư"! Hai, nếu không có những bản dịch và chú giải thật tốt, thật đầy đủ và kịp thời thì chắc là khoa triết ở mọi Đại học phương Tây phải “đóng cửa” hết!
Trong thời gian ở Việt Nam gần đây, tại sao ông lại chọn ngay I.Kant với bộ sách rất khó: Phê phán lý tính thuần túyvàHegel với Hiện tượng học tinh thần, cũng khó không kém, để dịch và chú giải?
Vì đây là hai quyển “làm khổ” sinh viên ban triết (và những người đọc sách triết) nhiều nhất, giống như câu nói: “Làm sãi thì sợ Chú Lăng Nghiêm” vậy! Ai cũng phải qua hai “cái cầu” này mới hy vọng hiểu được tư tưởng Tây phương cận và hiện đại. Tất nhiên, không chỉ có thế.
Những cuốn sách công phu như thế, ông đã làm việc trong bao lâu và cách làm của ông như thế nào?
Tôi cứ từ từ mà làm, như học trò học thi, hay như người đi leo núi. Không. nhìn cả quyển, cũng không nhìn cả chương mà chỉ nhìn từng đoạn giữa hai chỗ chấm câu sang hàng của tác giả. Ráng hiểu kỹ rồi mới dịch. Chưa hiểu thì tìm hiểu đã. Không hiểu thì thưa thật là không hiểu.
“Cuốn sách của I.Kant gần 1.300 trang với nhiều chú thích và chú giải, cuốn của Hegel hơn 1.600 trang với 1.300chú thích, lạicó thêm toát yếu và chú giải. Tại sao ông phải làm kỹlưỡng như vậy? Cókhi nào nó làm cho cuốn sách nặng nềhơn không?
Không có "phụ tùng" ấy, e cuốn sách còn "nặng nề" hơn! Kant bảo rằng: “Tầm cỡ của một cuốn sách không ở số trang của nó mà ở thời gian người ta cần để hiểu nó” (xem: Lời tựa lần xuất bản thứ nhất, Phê phán Lý tính thuần túy)."Hiểu” Kant và Hegel mà không cần sự trợ giúp của ai khác thì chỉ có hai trường hợp làmột bậc thiên tài về tư tưởng hoặc không... thành thật. Biếtmình không thuộc loại trước và không muốn trở thành loại sau, phần "rườm rà" này chỉ là cố gắng hỗ trợ lẫn nhau giữa những người đồng cảnh ngộ. Đối với những ai thành thật thấy mình may mắn thuộc loại trước, chúng quả thật rườm rà!
Hai cuốn sách gần 3.000 trang, tất nhiên có rất nhiều vấn đế được đặt ra. Nhưng nếu phảinói ngắngọn trong một bài phỏng vấn, ông nói sao về chủ đề của hai cuốnsách này? Địa vị củanó trong lịch sử triết học?
Kant khuyên ta nên biết chỗ dừng lại, Hegel thì khuyến khích ta mạnh dạn tiến lên. Hegel muốn biến triết học thành khoa học, tức để “biết thêm" một điều gì đó, Kant bảo rằng khoa học cần phải “biết” về chính mình , tức nên “bớt đi” một ảo tưởng mà ông gọi sự tỉnh ngộ ấy là “Khai sáng". “Vi Học nhật ích, Vi Đạo nhật tổn!".Kant và Hegel là hai "mô hình” tư duy khác nhau và triết học ngày nay vẫn nằm trong sự giằng co giữa “khoa học” và "khai sáng".Khoa học mà không khai sáng thì thiếu chất lượng triết học. Khai sáng mà không khoa học thì nguy cơ xa rời thực tại.Tầm quan trọng của “vụ việc” cho thấy rõ "địa vị" của cả hai ông trong lịch sử triết học.
Có quan điểm cho rằng: với triết học, nhữngcuốn nhập môn làmtrước, kinh điển thì làm sau. Quan điểm của ông như thế nàơ?
Tất nhiên cần cả hai."Nhập môn” là để chuẩn bị "đăng đường”, rồi "nhập thất”. Không "nhập thất” thì cứ đứng vẩn vơ mãi ngoài cổng, khó thấy được “vẻ đẹp đẽ của nhà tông miếu, cảnh giàu có của bá quan" (Luận ngữ).Người Nhật khi canh tân đất nước, đã thề nguyện với nhau: "Chỉ chịu làm học trò một thế hệ mà thôi!". Nhờ vậy, họ khá. Mình cũng nên “thề nguyện" với nhau như vậy.
Khó khăn lớn nhất khi ông dịch và chúgiải hai cuốnsách này là gì?
Ít có người đi trước để học hỏi, ít có người đi sau để tiếp tay.
Thông qua hai cuốn sách, thông điệp hay ước vọng của ông (vớingười đọc,giới nghiêncứu) trong công việc vốn rấtcô đơn nàylà gì?
Xây nhà từ móng, luyện nội công song song văn học quyền cước.
Vớingười ta,sách của mình intrước, sách "người" in sau, nghĩ sao mà ông làm ngược lại?
Phùng Hữu Lan, tác giả nổi tiếng của bộ Lịch sử triết học Trung Quốctừng than thở: “Làm triết gia thì không được, làm triết học gia thì không muốn.Đó là nỗi khổ tâm của ta mấy mươi năm nay". Tôi biết sức mình, nên không đến nỗi "khổ tâm" như cụ Phùng.
Một câuhỏi bên lề. Hiện nay ông là tộc trưởng của họ Bùi (Vĩnh Trinh, Quảng
Tôi lưu lạc lâu năm ở quê người, nay thỉnh thoảng được sống trong tình cảm thân thiết của bà con ruột thịt trong gia tộc, đó là niêm an ủi và hạnh phúc. Về anh Giáng, ngoài chỗ bà con, chẳng biết nói gì hơn. Anh là một vì sao, tôi là con đom đóm,anh là một thiên tài, còn mình là một con mọt sách.
PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THUẦN TÚY của Immanuel Kant được mọi người thừa nhận là tác phẩm nền tảng của triết học cổ điển Đức. Nó là chỗ kết tinh những nhận định có tính phê phán đối với nhiều trào lưu triết học trước đó (từ Platon cho tới Christian Wolff), đồng thời là điểm xuất phát và điểm quy chiếu của triết học cổ điển (duy tâm) Đức (Fichte, Schelling, Hegel) và có ảnh hưởng sâu đậm đến sự phát triển của triết học và khoa học Tây phương cho đến ngày nay.
Song, PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THUẦN TÚY không chỉ là một tác phẩm “bắt buộc phải đọc” của những ai muốn tìm hiểu và nghiên cứu triết học mà còn là một danh tác bất hủ của văn hóa Tây phương và của thế giới. Tác động của nó vượt ra khỏi lãnh vực chuyên môn của triết học. Hai đặc điểm nổi bật của tác phẩm là: một mặt, việc phê phán Siêu hình học cổ truyền đã làm rung chuyển cơ sở siêu hình học - thần học của thế giới quan truyền thống và do đó, là diễn đàn của “lý tính con người” buộc mọi thứ phải phục tùng sự “kiểm tra và phê phán tự do và công khai”. Mặt khác, tác phẩm phát triển những tiền đề cơ bản để nhận chân quyền tự do và tự trị của con người với tư cách là sinh vật có lý tính, tạo cơ sở cho sự tự - nhận thức về mặt đạo đức và pháp quyền của xã hội hiện đại.
MỤC LỤC
Mấy lưu ý của người dịch
Dẫn luận
Immanuel Kant - Phê phán lý tính thuần tuý
Đề từ
Lời tựa cho Lần xuất bản thứ nhất (1781) (bản A)
Chú giải dẫn nhập (của người dịch)
Lời tựa cho Lần xuất bản thứ hai (1787) (bản B)
Chú giải dẫn nhập
Lời dẫn nhập
Về sự khác nhau giữa nhận thức thuần túy và nhận thức thường nghiệm
Chúng ta sở hữu một số nhận thức tiên nghiệm và ngay tâm trí bình thường cũng không bao giờ không có chúng
Triết học cần có một môn khoa học xác định khả thể, các nguyên tắc và phạm vi của mọi nhận thức tiên nghiệm
Về sự khác nhau giữa phán đoán phân tích và phán đoán tổng hợp
Trong mọi môn khoa học lý thuyết của lý tính [thuần lý] đều có chứa đựng những phán đoán tổng hợp - tiên nghiệm như là các nguyên tắc
Vấn đề chủ yếu của lý tính thuần túy
Ý tưởng và sự phân chia [nội dung] của một môn khoa học đặc thù mang tên Phê phán lý tính thuần túy
Chú giải dẫn nhập
Học thuyết siêu nghiệm về các yếu tố cơ bản của nhận thức
Phần I: Cảm năng học siêu nghiệm
[Dẫn nhập]
Chú giải dẫn nhập
Chương I: Về không gian
Khảo sát siêu hình học về khái niệm không gian
Khảo sát siêu nghiệm về khái niệm không gian
Chương II: Về thời gian
Khảo sát siêu hình học về khái niệm thời gian
Khảo sát siêu nghiệm về khái niệm thời gian
Kết luận từ các khái niệm trên
Giải thích
Các nhận xét chung về Cảm năng học siêu nghiệm
Chú giải dẫn nhập
Phần II: Lô-gíc học siêu nghiệm
Dẫn nhập: Ý niệm về một môn Lô-gíc học siêu nghiệm
Về môn Lô-gíc học nói chung
Về môn Lô-gíc học siêu nghiệm
Về việc chia Lô-gíc học phổ biến ra thành Phân tích pháp và Biện chứng pháp
Về việc chia Lô-gíc học siêu nghiệm ra thành Phân tích pháp siêu nghiệm và Biện chứng pháp siêu nghiệm
Chú giải dẫn nhập
PHÂN TÍCH PHÁP SIÊU NGHIỆM
Quyển I: Phân tích pháp các khái niệm
Chương I: Về manh mối để phát hiện tất cả các khái niệm thuần túy của giác tính
Về việc sử dụng giác tính một cách lô-gíc nói chung
Về chức năng lô-gíc của giác tính trong các phán đoán
Về các khái niệm thuần túy của giác tính hay các phạm trù
Chú giải dẫn nhập
Chương II: Về sự diễn dịch các khái niệm thuần túy của giác tính
Về các nguyên tắc của một sự diễn dịch siêu nghiệm nói chung
Bước chuyển sang diễn dịch siêu nghiệm về các phạm trù
Diễn dịch siêu nghiệm các khái niệm thuần túy của giác tính [Theo ấn bản B 1787]
Về khả thể của một sự nối kết nói chung
\Về sự thống nhất tổng hợp - nguyên thủy của Thông giác
Nguyên tắc của sự thống nhất tổng hợp của Thông giác là nguyên tắc tối cao của mọi sự sử dụng giác tính
Sự thống nhất khách quan của Tự ý thức là gì
Hình thức lô-gíc của mọi phán đoán là ở trong sự thống nhất khách quan của thông giác về các khái niệm được chứa đựng trong đó [trong mọi phán đoán]
Mọi trực quan cảm tính đều phục tùng các phạm trù như các điều kiện chỉ nhờ đó cái đa tạp của trực quan có thể thống nhất trong một Ý thức
Nhận xét
Để nhận thức về những sự vật, phạm trù không có sự sử dụng nào khác hơn là áp dụng vào những đối tượng của kinh nghiệm
Về việc áp dụng các phạm trù vào những đối tượng của giác quan nói chung
Diễn dịch siêu nghiệm về việc sử dụng các khái niệm thuần túy của giác tính một cách phổ biến trong (phạm vi) kinh nghiệm khả hữu
Kết quả của sự diễn dịch này về các khái niệm của giác tính
Chú giải dẫn nhập
Sự diễn dịch siêu nghiệm về các khái niệm thuần túy của giác tính [ Theo ấn bản A, 1781]
- Về các cơ sở tiên nghiệm để mang lại khả thể cho kinh nghiệm
- Lưu ý sơ bộ
- Về sự tổng hợp của sự lãnh hội ở trong trực quan
- Về sự tổng hợp của sự tái tạo trong trí tưởng tượng
- Về sự tổng hợp của nhận thức (Rekognition) trong khái niệm
- Giải thích sơ bộ về khả thể của các phạm trù như là các nhận thức tiên nghiệm
Về mối quan hệ của giác tính đối với những đối tượng nói chung và về khả thể nhận thức chúng một cách tiên nghiệm [Theo ấn bản A, 1781]
- Hình dung tóm tắt về sự đúng đắn và về khả thể duy nhất của việc diễn dịch này về các khái niệm thuần túy của giác tính.
Quyển II: Phân tích pháp các nguyên tắc
Dẫn nhập: Về năng lực phán đoán siêu nghiệm nói chung
Chú giải dẫn nhập
Chương I: Về thuyết niệm thức của các khái niệm thuần túy của giác tính
Chú giải dẫn nhập
Chương II: Hệ thống tất cả các nguyên tắc của giác tính thuần túy
Về nguyên tắc tối cao của mọi phán đoán phân tích
Về nguyên tắc tối cao của mọi phán đoán tổng hợp
Hình dung có hệ thống về mọi nguyên tắc tổng hợp của giác tính thuần túy
Chú giải dẫn nhập
Các tiên đề của trực quan
Các dự đoán của tri giác
Chú giải dẫn nhập
Các loại suy của kinh nghiệm
Loại suy thứ nhất: Nguyên tắc về sự thường tồn của bản thể
Chú giải dẫn nhập
Loại suy thứ hai: Nguyên tắc về sự tiếp diễn của thời gian theo quy luật tính nhân quả
Chú giải dẫn nhập
Loại suy thứ ba: Nguyên tắc về sự tồn tại đồng thời theo quy luật về sự tương tác hay cộng đồng
Các định đề của tư duy thường nghiệm nói chung
Phản bác thuyết duy tâm
Nhận xét chung về hệ thống các nguyên tắc
Chương III: Về cơ sở để phân biệt mọi đối tượng nói chung ra thành Phaenomena [những hiện tượng] và Noumena [những Vật-tự thân]
Phụ lục: Về tính nước đôi (Amphibolie) của các khái niệm phản tư do việc sử dụng lẫn lộn giác tính một cách thường nghiệm và siêu nghiệm
Nhận xét về tính nước đôi của các khái niệm phản tư
Chú giải dẫn nhập
BIỆN CHỨNG PHÁP SIÊU NGHIỆM
Dẫn nhập
Về ảo tượng siêu nghiệm
Về lý tính thuần túy, xứ sở của ảo tượng siêu nghiệm
Về lý tính nói chung
Về việc sử dụng lý tính một cách lô-gíc Về việc sử dụng lý tính một cách thuần túy
Quyển I: Về các khái niệm của Lý tính thuần túy
Về các Ý niệm nói chung
Về các Ý niệm siêu nghiệm
Hệ thống các Ý niệm siêu nghiệm
Quyển II: Về các suy luận có tính biện chứng của Lý tính thuần túy
Chú giải dẫn nhập
Chương I: Về các võng luận (Paralogismen) của Lý tính thuần túy
[Theo ấn bản B]:
Phản bác chứng minh của Mendelssohn về sự thường tồn của linh hồn
Kết luận về sự giải quyết võng luận tâm lý học
Nhận xét chung về bước chuyển từ Tâm lý học thuần lý sang Vũ trụ học
Chú giải dẫn nhập
[Theo ấn bản A]:
Võng luận thứ nhất về tính bản thể
Võng luận thứ hai về tính đơn thuần
Võng luận thứ ba về tính nhân cách
Võng luận thứ tư về ý thể tính (của mối quan hệ bên ngoài)
Xem xét kết quả chung của tâm lý học thuần tùy từ các võng luận trên đây
Chương II: Nghịch lý (Antinomie) của lý tính thuần túy
Hệ thống các Ý niệm vũ trụ học
Nghịch đề luận (Antithetik) của lý tính thuần túy: (Bốn nghịch lý của lý tính thuần túy)
Về mối quan tâm của lý tính nơi sự tự mâu thuẫn của nó
Về sự nhất thiết buộc lý tính thuần túy phải tìm ra giải đáp cho các vấn đề siêu nghiệm của chính nó
Cách nhìn [theo phương pháp] hoài nghi về các vấn đề vũ trụ học qua bốn ý niệm siêu nghiệm
Thuyết duy tâm siêu nghiệm như là chìa khóa để giải quyết biện chứng vũ trụ học
Giải quyết cuộc tranh cãi của lý tính với chính nó về vấn đề vũ trụ học theo phương pháp phê phán
Nguyên tắc điều hành của lý tính thuần túy đối với các Ý niệm vũ trụ học
Về việc sử dụng thường nghiệm nguyên tắc điều hành của lý tính đối với các ý niệm vũ trụ học
- Giải quyết ý niệm vũ trụ học về cái toàn thể của sự tổng hợp những hiện tượng trong vũ trụ
- Giải quyết ý niệm vũ trụ học về cái toàn thể của sự phân chia một cái toàn bộ [chỉnh thể] được mang lại trong trực quan
Nhận xét tổng kết về việc giải quyết các ý niệm siêu nghiệm có tính toán học và dẫn nhập về việc giải quyết các ý niệm siêu nghiệm có tính năng động còn lại
- Giải quyết ý niệm vũ trụ học về cái toàn thể trong việc dẫn xuất mọi sự kiện trong vũ trụ từ những nguyên nhân của chúng
Khả thể của tính nhân quả từ tự do trong sự hợp nhất với quy luật phổ biến của sự tất yếu tự nhiên
Giải thích ý niệm vũ trụ học về tự do nối kết với tính tất yếu phổ biến của tự nhiên
- Giải quyết ý niệm vũ trụ học về cái toàn thể của sự phụ thuộc về mặt tồn tại nói chung của những hiện tượng
Nhận xét kết luận về toàn bộ phần Nghịch lý của lý tính thuần túy
Chú giải dẫn nhập
Chương III: Ý thể (das Ideal) của Lý tính thuần túy
Về Ý thể nói chung
Về Ý thể siêu nghiệm (Prototypon transcendentale)
Về các luận cứ của lý tính tư biện để suy ra [chứng minh] sự tồn tại của một Hữu thể tối cao
Chú giải dẫn nhập
Về sự bất khả của luận cứ bản thể học nhằm chứng minh sự tồn tại của Thượng Đế
Chú giải dẫn nhập
Về sự bất khả của luận cứ vũ trụ học nhằm chứng minh sự tồn tại của Thượng Đế
Chú giải dẫn nhập
Phát hiện và giải thích ảo tượng biện chứng trong tất cả các luận cứ siêu nghiệm về sự tồn tại của một Hữu thể tất yếu
Về sự bất khả của luận cứ vật lý - thần học
Chú giải dẫn nhập
Phê phán mọi thứ thần học xuất phát từ các nguyên tắc tư biện của lý tính
Phụ lục cho phần Biện chứng pháp siêu nghiêm
Về việc sử dụng các Ý niệm của lý tính thuần túy theo cách điều hành (regulativ)
Chú giải dẫn nhập
Về mục đích tối hậu của phép biện chứng tự nhiên trong lý tính con người
Chú giải dẫn nhập
HỌC THUYẾT SIÊU NGHIỆM VỀ PHƯƠNG PHÁPp
Chương I: Kỷ luật học (Disziplin) của lý tính thuần túy
Kỷ luật của lý tính thuần túy trong việc sử dụng giáo điều [khi đưa ra những khẳng định giáo điều]
Kỷ luật của lý tính thuần túy trong tranh biện
Thuyết hoài nghi không thể là trạng thái thường xuyên và tối hậu của lý tính con người
Kỷ luật của lý tính thuần túy khi đưa ra những giả thuyết
Kỷ luật của lý tính thuần túy trong chứng minh
Chương II: Bộ chuẩn tắc (Kanon) cho lý tính thuần túy
Về mục đích tối hậu của việc sử dụng lý tính một cách thuần túy
Về Ý thể “Sự Thiện Tối Cao” như là cơ sở xác định mục đích tối hậu của lý tính thuần túy
Về tư kiến - tri thức - lòng tin
Chương III: Kiến trúc học (Architektonik) của lý tính thuần túy
Chương IV: Lịch sử của lý tính thuần túy
Chú giải dẫn nhập
Mục lục tên người
Mục lục vấn đề và nội dung thuật ngữ
Niên biểu tóm tắt về cuộc đời và các tác phẩm của I.Kant
Một ngày trong đời Kant
Thư mục chọn lọc
HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦNtrình bày cái biết đang trở thành (daswerdende Wissen). Tập sách có nhiệm vụ thay chỗ cho những giải thích có tính tâm lý học hay cho cả những biện giải trừu tượng về việc đặt cơ sở cho cái biết. Nó xem xét việc chuẩn bị để đi đến với khoa học từ một cách nhìn làm cho việc chuẩn bị ấy là một khoa học đầu tiên, mới mẻ và lý thú của Triết học. Nó bao hàm những hình thái khác nhau của tinh thần như là những chặng đường của con đường đưa Tinh thần trở thành cái biết thuần túy hay Tinh thần tuyệt đối. Vì thế, cái biết thuần túy được xem xét trong các bộ phận chủ yếu của môn khoa học (hiện tượng học) vốn được chia ra thành: ý thức, Tự - ý thức, lý tính quan sát và lý tính hành động, bản thân Tinh thần với tư cách là Tinh thần đạo đức (xã hội).
Tinh thần được đào luyện trong thế giới văn hóa và Tinh thần luân lý và sau cùng như là Tinh thần tôn giáo trong những hình thức khác nhau của nó. Sự phong phú của các hiện tượng của Tinh thần thoạt nhìn như một sự hỗn mang ấy được đưa vào một trật tự khoa học. Trật tự ấy trình bày các hiện tượng này dựa theo tính tất yếu của chúng, trong đó những hiện tượng chưa hoàn hảo tự giải thể và quá độ sang những hiện tượng cao hơn như là chân lý (hay sự thật) sát cận nhất của chúng. Chúng sẽ tìm thấy chân lý (hay sự thật) tối hậu thoạt đầu ở trong tôn giáo, rồi ở trong khoa học (Triết học tư biện) như là kết quả của cái Toàn bộ" (Hegel).
MỤC LỤC
Mấy lời giới thiệu và lưu ý của người dịch: “Cùng Hiện tượng học Tinh thần qua các chặng đường đánh giá”
GEORG WILHELM FRIEDRICH HEGEL - HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN
Lời tựa
Về nhận thức khoa học
Môi trường của chân lý là khái niệm và hình thức đúng thật của nó là hệ thống khoa học
Chỗ đứng hiện nay của Tinh thần
Nguyên tắc không phải là sự hoàn tất: chống lại chủ nghĩa hình thức
Cái Tuyệt đối là Chủ thể
... Và chủ thể này là gì?
Môi trường của tri thức
Nâng lên trong môi trường của tri thức chính là (công việc của) “Hiện tượng học Tinh thần”
Chuyển hóa cái được hình dung bằng biểu tượng và cái quen thuộc thành tư tưởng
... Và nâng tư tưởng lên thành Khái niệm
Hiểu như thế nào khi bảo rằng: “Hiện tượng học Tinh thần" có tính phủ định và chứa đựng cái sai?
Chân lý lịch sử và chân lý toán học
Bản tính của chân lý triết học và phương pháp của nó
Chống lại chủ nghĩa hình thức sơ đồ hóa
Điều đòi hỏi trong việc nghiên cứu triết học
Tư duy “lý sự” trong thái độ phủ định (tiêu cực) của nó
... Và trong thái độ khẳng định của nó; (với tư cách là) Chủ thể
Triết lý theo kiểu tự nhiên với tư cách là “lý trí con người lành mạnh” và với tư cách là “thiên tài”
Kết luận: quan hệ của tác giả với công chúng
Lời dẫn nhập
Ý THỨC
Chương I: Sự xác tín cảm tính; “cái này” và sự “cho rằng”
Chương II: Tri giác; sự vật và sự lừa dối (của nó)
Chương III: Lực và giác tính, hiện tượng và thế giới siêu - cảm tính
TỰ - Ý THỨC
Chương IV: Sự thật của việc xác tín về chính mình
Sự độc lập tự chủ và không độc lập tự chủ của Tự ý thức; làm Chủ và làm Nô
Tự do của Tự ý thức; thuyết khắc kỷ, thuyết hoài nghi và ý thức bất hạnh
LÝ TÍNH
Chương V: Sự xác tín và sự thật của lý tính
Lý tính quan sát
Việc hiện thực hóa của Tự ý thức lý tính thông qua chính bản thân mình
Tính cá nhân tự biết chính mình là thực tồn tự mình và cho mình
TINH THẦN
Chương VI: Tinh thần
Tinh thần đúng thật (Tinh thần khách quan), trật tự đạo đức
Tinh thần tự tha hóa; sự đào luyện (văn hóa)
Tinh thần tự xác tín về chính mình. Luân lý
TÔN GIÁO
Chương VII: Tôn giáo
Tôn giáo tự nhiên
Tôn giáo nghệ thuật
Tôn giáo khải thị
TRI THỨC TUYỆT ĐỐI
Chương VIII: Tri thức tuyệt đối
Phụ lục:Trích đoạn hài kịch “Đôi giày tuyệt đối” (của F.G.L.Linder, dành cho bạn đọc nào đã bị “nội thương trầm trọng” sau khi đọc “Hiện tượng học Tinh thần”
Niên biểu tóm tắt về cuộc đời và các tác phẩm của Hegel
Mục lục tên riêng
Mục lục vấn đề và nội dung thuật ngữ
Thư mục chọn lọc
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngCon người hiểm độc
01/01/1900Phạm Quỳnh