Kẻ sĩ xưa và nay: nỗi cô đơn triền miên

10:36 SA @ Thứ Sáu - 23 Tháng Năm, 2014

Văn hóa bao giờ cũng chuyển mình rất chậm, qua chọn lọc lâu dài của thời gian, không như giá trị vật chất hay kỹ thuật. Văn hóa là những gì còn được ghi nhớ sau bao thứ bị con người quên đi, nó giống như hạt ngọc còn lại trong con lòng con trai ngọc sau khi cái xác trai thối rữa tan biến thành cát bụi trooi theo dòng nước. Khái niệm “kẻ sĩ Bắc Hà, sĩ phu Bắc Hà” là một trong những hạt ngọc khá độc đáo còn lại trong văn hóa Việt.

Kẻ sĩ Bắc Hà được nhắc tới và nói đến nhiều có lẽ từ thời Lê Mạt nhiễu nhương, tiếp đến là Trịnh Nguyễn phân tranh rạch đôi sơn hà Nam – Bắc và sau đó là triều đại Quang trung Nguyễn Huệ chói lòa rồi tắt nhanh như sấm sét. Chưa bao giờ đất nước và lòng người bị chia rẽ, phân tâm như thời ấy. Dân chúng lầm than đói khổ, nông dân khởi nghĩa và giặc giã nổi như rươi, kỷ cương rối loạn, văn hóa suy đồi. Hào quang khí phách Chu Văn An nhiều trăm năm trước vẫn le lói trong tâm thức kẻ sĩ. Khác hẳn với xã tắc trước đây là một mối “vững âu vàng”, từ thời thịnh Trần, sau đó là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn tạo dựng một triều vua có thể nói là thịnh trị nhất trong lịch sử. Kẻ sĩ từ Lý Thường Kiệt đến Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Đặng Dung và bao sĩ phu khác hầu như chỉ có một con đường để chọn là đuổi giặc xâm lược phương Bắc, cứu dân, cứu nước. Chưa có “Nam Hà” nên cũng chưa ai nói tới “sĩ phu Bắc Hà”.

Nhưng từ Nguyễn Bỉnh Khiêm và sau đó khá lâu là Nguyễn Thiếp, giới sĩ phu đã vấp phải trước mắt mình những ngã ba đường khắc nghiệt của lịch sử. Vốn được nuôi dưỡng bằng bầu sữa Nho giáo hàng trăm năm với tinh thần trung quân miễn bàn, họ bỗng choáng ngợp trước quá nhiều ông vua để thờ, nhiều triều vua để chọn. Khi khuyên Nguyễn Hoàng vào Nam “vạn đại dung thân”, Trạng Trình đã đánh dấu một giai đoạn lịch sử mới. Một đất nước đang tan rã, đang phân liệt và kẻ sĩ vốn chỉ biết có nhà Lê đang tự hỏi mình về tính chính thống còn hay mất? Trong cuồng phong loạn ly với những cơn xoáy mãnh liệt, nhân cách con người và trước hết là của giới tinh hoa có học được hình thành. Nhà thơ Aragon rất có lý khi viết câu thơ: “ Khi tấm kính nhân dân bị che mờ thì mặt người soi vào càng thấy rõ”. Kẻ sĩ được đặt trước những nan vấn đụng chạm đến cả đức tin đạo Nho khi cung Vua phủ Chúa tràn ngập rác rưởi, dâm loạn và thối nát. Những Thị Huệ, Đặng Mậu Lân hay Huy quận công chà đạp lên nhân phẩm của một xã hội từng có kỷ cương đang rữa nát. Kẻ sĩ – người có học, được coi là lương tri của thời đại không thể không tự dằn vặt là mình đang buộc phải “trung” với loại vua nào, chúa nào. Nhưng chữ nghĩa và đạo đức thánh hiền cùng tính cách học trò thừa bạc nhược, không cho phép họ hành động, không cho họ làm những gì họ nghĩ, họ muốn làm. Mấy ai được như Nguyễn Hoàng dứt áo ly khai? Mấy ai được như Nguyễn Hữu Cầu, bỏ văn lấy võ với khát vọng san bằng bất công, sắp xếp lại giang sơn? Hay như Lý Trần Quán tự chôn sống mình để bảo toàn khí tiết?

Cặp bài trùng bạn đồng môn Phạm Đình Trọng – Nguyễn Hữu Cầu (Quận He) thời Lê Trịnh và Thần Siêu – Thánh Quát thời Minh Mạng cũng như mối mâu thuẫn lớn trong tâm trạng thiên tài Nguyễn Du, cục máu đông không thể tan, với hàng chục năm lận đận tìm đường chống Tây Sơn, tỏ lòng trung với nhà Lê đã bộc lộ hết sức rõ ràng sự giàng xé tâm can kẻ sĩ Bắc Hà đương thời. Những kẻ sĩ khí phách như Nguyễn Hữu Cầu vứt đường công danh làm giặc, như Cao Bá Quát, thiên tài thi ca vẫn ước ao “Ngã dục đăng cao/Hạo ca ký vân thủy” (Ta muốn trèo lên đỉnh cao ngất/Hát vang lên để gửi tấm lòng vào mây nước...), dám cầm gươm nổi loạn để kết thúc cuộc đời trên chiến trường. Hay như Nguyễn Du bảo hoàng hơn cả vua, ôm mối trung quân, muốn “làm giặc” chống “giặc Tây Sơn” tuy cầm gươm không nên cơm cháo gì, nhưng cây bút lông của ông đã viết trọn những trang huy hoàng nhất của văn thơ nước Việt. Dù có người làm “giặc” nhưng ngay cả người đương thời vẫn coi họ là “kẻ sĩ”, có nhân cách lớn của “kẻ sĩ”.

Nhưng kẻ sĩ Bắc Hà không chỉ làm giặc. Một số lớn bị quan niệm bảo hoàng và cả nợ áo cơm trói buộc, bị giằng xé đau đớn suốt cuộc đời trong nỗi cô đơn. Nguyễn Siêu không đủ gan làm giặc nhưng mang tâm trạng u uất, bất lực, đành để tâm trau giồi văn thơ cứu lấy tinh hoa văn hóa, chỉ còn biết “tả thanh thiên” (viết lên trời xanh) đối thoại với trời xanh những điều không thể viết thành chữ thành lời. Hay Nguyễn Công Trứ, nhà thơ lớn của dân tộc, có cái ngông, cái phản kháng trong bản chất, một nhân cách độc đáo của kẻ sĩ, tuy bảy nổi ba chìm trong hoạn lộ nhưng vẫn không dứt được tấm áo xanh quan văn và cả cân đai quan võ, không thể thoát ra khỏi sức hút của bộ máy quyền lực mà trong thâm tâm ông khinh ghét.


Bác Hồ hỏi chuyện giáo sư Trần Đại Nghĩa

Và mãi tới sau này, khi triều Nguyễn đã ổn định trong cái ô “bảo hộ” của thực dân Pháp, khi nước đã mất không tìm thấy ngày mai, những kẻ sĩ Bắc Hà như Nguyễn Khuyến, Tú Xương vẫn có cái tài ấy, cái ngông, cái phản kháng, cái thâm nho ấy, nhưng chi còn biết giữ được nhân cách kẻ sĩ bằng cách trút tâm sự vào những vần thơ trào lộng để đời mà thôi.

Một số kẻ sĩ lại có cách xuất xử khác thường. Trong làn sóng ngầm dữ dội và quyết liệt chống Quang Trung ở Bắc Hà với Lý Trần Quán, Trần Phương Bình, Nguyễn Hành, Phạm Thái, Bùi Dương Lịch, kể cả Nguyễn Du…thì một số sĩ phu Bắc Hà như
Ngô Thì Nhậm (1746 - 1802) , Phan Huy Ích (1751 - l822) , Nguyễn Thế Lịch (1748 - 1817), Vũ Huy Tấn (1749 - 1800) cùng nhiều người khác, tự nguyện và cũng rất hồ hởi ra trình diện và cộng tác với triều Tây Sơn mà có vẻ như không hề có mặc cảm “thờ hai vua”. Họ rất được nhà vua áo vải trọng dụng. Sau khi Gia Long lên ngôi, họ bị làm nhục, trả thù tàn nhẫn. Nhưng sau đó, con cháu họ như Phan Huy Chú, Phan Huy Vịnh ( con và cháu Phan Huy Ích) lại cộng tác và làm quan to với nhà Nguyễn, như quên mối thù xưa và khí phách kẻ sĩ. Thực ra, đây là một đặc điểm của kẻ sĩ Bắc Hà. Những người này có thể bị đời sau cho là “cơ hội”, “sọc dưa”. Nhưng họ là những đại sĩ phu, học rộng tài cao. Họ chỉ đơn giản tranh thủ cơ hội để được đưa cái sở học của mình ra gìn giữ ngôi đền văn hóa nước nhà vì họ là kẻ sĩ. Nếu không thế làm sao đời sau có được 28 tập Lịch triều hiến chương loại chí và bài dịch Tỳ bà Hành bất hủ?

Từ Nguyễn Hữu Cầu, Cao Bá Quát đến Phan Huy Ích, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Công Trứ cho tới Nguyễn Khuyến, Tú Xương và sau nữa là Tản Đà…mỗi người một vẻ, kẻ sĩ Bắc Hà khác nhau rất nhiều về cách xuất xử, về hành vi cũng như tính cách cá nhân, thậm chí đối lập như nước với lửa. Nhưng chính khối mâu thuẫn ấy đã tạo nên một viên ngọc văn hóa, đó là nhân cách “kẻ sĩ Bắc Hà” với tính cách thâm thúy, học rộng tài cao, có sở hữu chung là cái ngông, cái thâm nho, có minh triết lẫn tù mù trí tuệ, tuy mỗi người biểu hiện những tính cách đó khác nhau, thậm chí trời vực. Có số ít kẻ sĩ dấn thân thà chết không chịu nhục, bên cạnh đó cũng không ít người chấp nhận sống cảnh hàn nho, coi trời bằng vung nhưng luôn “mong được vua yêu”( Mười mấy năm qua ấn với thao/Thân này mong được đức vua yêu – Nguyễn Khuyến), nói là hèn nhát trước đòi hỏi của thời cuộc cũng không oan.

Tuy thế, qua văn thơ, giai thoại, hành vi, họ đã tạo ra được một khái niệm văn hóa trường tồn cùng lịch sử, đó là khái niệm “kẻ sĩ Bắc Hà” với tất cả các mặt đối lập hay dở phong phú để hậu thế có thể tranh cãi, bình luận thậm chí chế riễu và chiêm nghiệm học hỏi.

Có người nói rằng “kẻ sĩ Bắc Hà” đã chết. Chết với cảnh đầu rơi máu chảy của thi hào họ Cao, với chiếc roi tẩm thuốc độc của Đặng Trần Thường, cái nhẫn nhịn “mấy năm làm quan không nói một lời tâu vua” của Nguyễn Du, cuộc đời ưu thời mẫn thế, luôn bất mãn nhưng bất lực của Nguyễn Khuyến, Tú Xương…

Thực ra không hẳn thế. Khái niệm “kẻ sĩ Bắc Hà” xưa đã trở thành truyền thống kẻ sĩ. Bất mãn, phản biện và phản kháng để giữ nhân cách (tu thân) và sau đó là thay đổi hay uốn nắn thời cuộc (bình thiên hạ) theo những nguyên lý truyền thống họ được giáo dục và truyền đạt là đặc điểm của trí thức mọi thời chứ không riêng gì kẻ sĩ Bắc Hà. Dù mang nhiều mặt đối lập, dù là một khối mâu thuẫn lớn, dù khí phách lẫn hèn nhát, truyền thống kẻ sĩ vẫn là một điểm son, một hạt ngọc có ảnh hưởng tích cực là chủ yếu trong tâm thức văn hóa Việt.

Thế kỷ hai mươi, “khi tấm kính của nhân dân bị che mờ”, nước mất nhà tan hay kẻ thù mang gươm súng trở lại hòng “đô hộ nước ta một lần nữa”, chắc chắn lịch sử sẽ không quên một lớp kẻ sĩ (không chỉ Bắc hà) đã thật sự phát sáng trên con đường cứu dân cứu nước. Tuyệt đại đa số trí thức hàng đầu, hậu duệ của tầng lớp kẻ sĩ ưu thời mẫn thế dù đã phiêu bạt nước ngoài hay còn ở lại trong nước đã tự nguyện hiến dâng cho đại nghĩa dân tộc. Đó là lớp “sĩ phu” Tây học nhưng còn khá đậm tinh thần Nho giáo, dù mác-xít hay không, vẫn chấp nhận hy sinh mọi thứ để đứng dưới cờ kháng chiến như Hồ Đắc Di, Tạ Quang Bửu, Hoàng Xuân Hãn, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Khắc Viện…Lớp kẻ sĩ thời đó, như ta biết về sau này, tuy bị ảnh hưởng sâu đậm của trí thức phương Tây ở thế kỷ ánh sáng như Voltaire, Diderot nhưng vẫn mang đầy đủ tính cách “kẻ sĩ” truyền thống, vẫn “ngông”, vẫn có bản chất phản biện và tính cách mạnh mẽ do hấp thụ hoặc sống nhiều năm trong xã hội phương Tây. Nhưng họ đã từ bỏ bản thân mình, kể cả cuộc đời vật chất lầu son gác tía để đi theo và cố gắng thích nghi với kháng chiến. Sự hy sinh ấy không phải là nhỏ nhưng niềm tin vào cuộc hồi sinh của dân tộc đã làm họ lạc quan, thúc đẩy họ luôn hướng về phía trước. Nhà thần học Nguyễn Khắc Dương nhớ lại : “Anh (Tạ Quang Bửu) đưa mắt nhìn quanh anh em rồi trầm giọng xuống nói rằng : “Anh rất thương các em, con đường học vấn của các em thế là dang dở. Rồi đây một số trong các em sẽ phải lên đường với một hành trang chưa đầy đủ như lớp các anh, dù sao cũng tạm gọi là một phần nào thành đạt. Trong các em rồi nhiều kẻ sẽ bị hy sinh dù là dưới dạng nào trên nẻo đường nào. Nhưng các em cứ mạnh dạn đi theo con đường của mình và nên biết những biến chuyển lớn lao của lịch sử bao giờ cũng đòi hỏi rất nhiều hy sinh dưới rất nhiều dạng. Và dù hy sinh dưới dạng nào (có khi những dạng đối nghịch nhau) thì những hy sinh của các em cũng trực tiếp hay gián tiếp góp phần vào sự nghiệp xây dựng tương lai”. ( Trích trong cuốn Thầy Nghệ - NXB Hà Nội). Ta thấy rõ, sự giải phóng cá nhân từ văn hóa phương Tây trong tâm thức lớp kẻ sĩ thế kỷ hai mươi như dòng sông lớn hòa tan, làm nhạt dần chất “kẻ sĩ Bắc Hà” mà chúng ta hằng biết.

Sau thắng lợi vang dội thống nhất đất nước cũng như những sai lầm của quá khứ trước đổi mới, sau những thành tựu lớn lao về kinh tế sau 20 năm chuyển mình sang kinh tế thị trường, đất nước đang hiện hữu một xã hội có quá nhiều vấn nạn. Nhiều sự thật đáng buồn đang diễn ra trước mắt nhân dân. Bên ngoài lũ bành trướng lăm le nuốt trọn biển Đông và các quần đảo cha ông để lại cho chúng ta, bên trong nạn tham nhũng hoành hoành và cái hố giàu nghèo được khoét sâu và mở rộng chưa từng có. Đó là nguồn gốc của tội ác đang xẩy ra mỗi ngày được “nâng cấp”, được trưởng ác dần lên, của tình trạng đạo đức truyền thống đang suy đồi, giáo dục bế tắc, có thể nói là khủng hoảng, văn hóa đặc biệt là văn học nghệ thuật đang xuống cấp nghiêm trọng. Tất cả đều làm mọi người lo lắng. Thất phu hữu trách nhưng trước hết là trí thức, những người có học đang phải đối mặt với vấn nạn. Dấn thân luôn nằm trong bản chất của họ.

Kẻ sĩ thời nay đã có sẵn trong máu truyền thống kẻ sĩ thời Nho giáo thịnh hành hay từ lớp cha anh Tây học vừa khuất bóng chưa bao lâu. Cái sở học của họ không như cha ông. Họ đang sống trong một thế giới hòa nhập, đặc biệt là xa lộ internet và có thể không sợ vô lễ khi cho rằng họ học cao tài rộng hơn cha anh ( đương nhiên với sự phát triển của thế giới văn minh), tính độc lập suy nghĩ và chất phản biện vốn có sẵn trong con người kẻ sĩ mọi thời đại cũng mạnh mẽ hơn nhiều. Bởi vì chất Nho giáo chưa hề tồn tại hoặc nếu có ( những người xuất thân gia đình nho giáo) thì cũng đã nhạt nhòa.

Nhưng kẻ sĩ thời nay như ta quen nghĩ về họ đã làm được gì, đã xuất xử thế nào? Rõ ràng là họ chưa làm được gì nhiều. Bởi vì, trước hết nếu không nói là duy nhất, kẻ sĩ thời nay cũng không may mắn hơn kẻ sĩ thời xưa là không có được một cơ chế, một môi trường phản biện lành mạnh để họ có điều kiện giúp dân giúp nước. Thời xưa đàn hặc, viết sớ, tâu trình vua không nghe hoặc may ra trăm lần mới có một lần nghe. Nỗi đau không chỉ riêng của Chu Văn An, thật điển hình. Kẻ sĩ mặc nhiên rơi vào một nỗi cô đơn triền miên. Người lạc vào hẽm núi, kêu cứu vẫn còn có thể nghe được tiếng vọng. Nhưng kẻ sĩ bày tỏ tâm can thậm chí cũng không nghe thấy tiếng dội của lòng mình, còn hy vọng gì mắt xanh của vua. Nay cũng không khác lắm ngày xưa. Nhiều kiến nghị tâm huyết đã bị rơi xuống cái vực "im lặng đáng sợ"!

Không ít kẻ sĩ nản chí đầu hàng vì không chịu nổi sự cô đơn. Thói quen thụ động và nhút nhát dẫn tới dễ dàng chấp nhận vô điều kiện mọi thứ gọi là chính thống. Có người coi Trời bằng vung nhưng vẫn có kẻ coi vung bằng Trời.

Dù vậy, kẻ sĩ chưa chết. Tinh thần và khí phách của kẻ sĩ Bắc Hà chưa chết và sẽ không chết. Roi tẩm thuốc độc của Đặng Trần Thường chỉ giết được thể xác một Ngô Thời nhiệm chứ không nhục mạ được tinh thần kẻ sĩ. Hơn bao giờ hết, trên con đường dẫn tới một Việt nam giàu mạnh, dân chủ, văn minh, xã hội vẫn cần một tinh thần phản biện kẻ sĩ, khí phách không nhân lượng với cái ác của kẻ sĩ. Không thể tưởng tượng được một xã hội không còn kẻ sĩ dù trong số họ hoặc trong mỗi người không phải bao giờ cũng loại trừ được những cái dở, cái hèn, cái bàng quan.

Cô đơn luôn đồng hành một cách tự nhiên với những người nhìn thấy trước và mạnh dạn bước lên trước thời đại. Có câu nói: “Nguy hiểm nhất là người chỉ đọc một cuốn sách”. Nhưng còn nguy hiểm hơn là những người được giao trọng trách trong xã hội, dắt dẫn dân chúng mà chưa từng đọc một cuốn sách. Vì thế, kẻ sĩ luôn vẫn là nguyên khí của mọi thời.

FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Kẻ sĩ ngày xưa và người trí thức ngày nay

    18/01/2018Phạm Đạt NhânKẻ sĩ xưa và trí thức nay theo nghĩa hẹp là tên gọi khác chỉ người học, người có chữ nghĩa, học cao hiểu rộng và có lương tâm, lương thức. Kẻ sĩ và trí thức khác nhau về cái học nhưng về vai tuồng, sứ mệnh đối với xã hội, với nhân tâm, thế đạo thì không khác. Kẻ sĩ hay trí thức mãi mãi là hình thái văn hóa. Văn hóa là phần hồn của đất nước. Cái học ngày xưa có gì khác với cái học ngày nay? Và kẻ sĩ ngày xưa nắm giữ vai tuồng gì đối với quốc gia, xã tắc?
  • ‘I’ve Never Been to Me’, nỗi cô đơn của tự do

    05/06/2017Anh TrâmBài hát là lời nhắc nhở phụ nữ hãy biết trân trọng những gì đang có bởi hạnh phúc chẳng ở đâu xa, chính là từ những điều giản dị của cuộc sống đời thường...
  • Cô đơn hay lộng gió thời đại?

    12/08/2016Đinh Quang TốnVăn nghệ sĩ muốn sáng tạo thì phải hiểu thấu mọi điều từ nội tâm con người đến mọi sự việc hành động của toàn xã hội. Anh cô đơn, không hòa đồng với mọi người thì làm sao hiểu được họ? Những điều anh viết ra sao có được hơi thở cuộc sống? Những điều anh bịa ra rất dễ quái đản! Không, văn nghệ sĩ, trong đó có các nhà thơ nhà văn phải có một tâm hồn lộng gió thời đại thì mới mong có được những tác phẩm có sức sống...
  • Trí thức: người ba đấng, của ba loài

    02/04/2016Phạm ToànDạo này, chợt rộ lên rất nhiều bài viết về trí thức. Một tờ báo vốn tự phong là mang mấy góc nhìn của trí thức đã dành hẳn hai số liền để phát biểu phản biện về vấn đề trí thức. Có nhiều nhà trí thức tìm cách gửi bài tranh luận và thường khéo léo để dư ra một hai câu tự do hơi quá trớn để biên tập viên có việc làm và phần bài còn vừa lại vẫn vừa khuýp, đọc lên cũng vui vui, toàn chuyện chẳng chết ai mà cũng chẳng làm ai chết...
  • Chuyện "anh" trí thức

    04/03/2016Nhà nghiên cứu - hoạ sĩ Nguyễn QuânGiờ đã bắt đầu chặng đường của các nước trung bình. Các lợi thế tích cực đã qua, các hệ quả tiêu cực ngày càng trầm trọng. Người trí thức sẽ phải vào vai chính,là chủ lực tiên phong cho HĐH - CNH...
  • Cần phân biệt trí thức với trách nhiệm công dân của trí thức

    08/12/2015Hồ Quang HuyThời gian qua cộng đồng bạn đọc báo mạng bình luận sôi nổi về chủ đề trí thức. Đặc biệt các ý kiến trái chiều về phát biểu của GS Ngô Bảo Châu đăng trên báo tuổi trẻ online qua bài trả lời phỏng vấn của GS với báo này...
  • ‘Her’ - nỗi cô đơn trong thế giới công nghệ

    19/05/2014Anh TúBộ phim mà kiều nữ bốc lửa Scarlett Johansson chỉ diễn xuất bằng giọng nói đưa khán giả đi tới tận cùng của sự cô đơn trong thời đại con người phụ thuộc vào máy móc.
  • Trí thức cận thần và trí thức độc lập

    08/04/2014Giáp Văn DươngBài học lớn nhất mà chúng ta học được từ Nguyễn Trường Tộ chính là sự thất bại của ông trong việc kiến nghị những giải pháp canh tân đất nước với tư cách một trí thức. Từ đó thấy rằng, chỉ khi nào người trí thức tự giác tránh con đường cụt mang tên "Trí thức cận thần" để đi trên con đường mới - con đường trí thức độc lập, trí thức dấn thân - thì đất nước mới có thể tránh được nguy cơ trở thành "đất nước cận thần" và giữ được nền độc lập đúng nghĩa...
  • Là trí thức, cần nhận thức đầy đủ trách nhiệm trước vận mệnh của dân tộc

    24/03/2014Phan Thắng thực hiệnNhà bác học –trí thức tiêu biếu của thời đại, Einstein đã có lần nói đại ý: anh có thể là kỹ sư nguyên tử giỏi, nhưng không phải là một trí thức. Người lao động trí óc có khả năng sáng tạo thì đông, nhưng tầng lớp trí thức thực thụ thì không thể là đại trà. Cũng chẳng có tiêu chuẩn và sự xét duyệt nào để phong tặng danh hiệu trí thức cho ai cả. Tầng lớp trí thức không phải là một đoàn thể, họ có thể xuất thân từ các giai cấp khác nhau, và qua đối thoại-giao lưu chính kiến họ sẽ tự hình thành trong một thể chế có xã hội dân sự lành mạnh...
  • Newton và Einstein, Hai người khổng lồ cô đơn

    03/09/2013Phạm Nguyễn Việt HưngCả Einstein lẫn Newton đều có trí tuệ vĩ đại khiến cho mọi người đều biết về những cống hiến của họ và ngoài đó nữa. Newton đã phát minh ra phép tinh vi tích phân, đã phát biểu các định luật của cơ học và đưa ra định luật vạn vật hấp dẫn. Còn Einstein đã đặt cơ sở cho hai toà nhà chọc trời của vật lý hiện đại, đó là thuyết tương đối hẹp và lý hiện đại, đó là thuyết tương đối hẹp và vật lý lượng tử, đồng thời cũng xây dựng một lý thuyết mới về hấp dẫn.
  • Trí thức là cái chi chi?

    31/01/2012Nguyễn Văn PhúCó những cái, chỉ khi ta đã đánh mất thì mới ý thức được sự tồn tại trước đó của nó. Đạo đức là một ví dụ. Một xã hội lương hảo ai bàn chuyện đạo đức mà làm chi.
    Trí thức cũng là một khái niệm tương tự...
  • Xã hội và văn hóa trí thức Việt Nam (Kỳ 1)

    28/08/2011TS. Trịnh Văn ThảoĐã đến lúc phải thực nghiệm thực tiễn lẫn trí thức của ba thế hệ xã hội trước thử thách lịch sử, tìm hiểu phương thức dấn thân, hình thức đấu tranh, giá trị tinh thần, ý thức hệ của từng thế hệ và xuyên qua các giai đoạn tiếp nối nhau trong thế kỷ Pháp – Việt, nhận chân và giải lý những khác biệt, mâu thuẫn, tranh chấp và xung đột giữa người Việt Nam qua khái niệm văn hoá trí thức...
  • Cách mạng Tháng Tám: Khi trí thức dấn thân

    18/08/2011Đoan TrangCho đến nay, nhiều tài liệu lịch sử đã khẳng định liên minh công - nông - trí là nền tảng sức mạnh của cách mạng Việt Nam. Nhưng nói như vậy có lẽ chưa đủ để xác nhận vai trò to lớn của lực lượng trí thức Việt Nam, đại diện cho trí tuệ và tinh thần dân tộc của nhân dân trong các cuộc đấu tranh giành độc lập.
  • Đã là trí thức thật thì ai cũng dấn thân

    25/06/2011Kim YếnLà phó chủ nhiệm uỷ ban Văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội, hình ảnh của ông gắn liền với không khí nghị trường nóng bỏng. “Ông nghị phản biện nhiều nhất” là cái tên mà nhiều người đã yêu quý gọi ông...
  • Cô đơn của viết

    21/07/2010Nguyễn Thị Từ Huy“Nỗi cô đơn của viết là nỗi cô đơn mà không có nó sẽ không có tác phẩm”. Phải chăng Duras muốn nói: thiếu nỗi cô đơn người ta sẽ không làm gì để biểu hiện cái riêng của mình, không nhìn gì bằng con mắt riêng của mình, tức là chỉ thấy điều mà tất cả mọi người đều thấy, và bị nhấn chìm trong đó, trong cái nhìn tập thể vô bản sắc.
  • Cô đơn trên mạng

    04/03/2007Anh NguyễnĐã trở thành một thói quen từ khi nào không biết, sáng nay tôi lại ngồi vào bàn làm việc, bật máy tính và bắt đầu “chu du” trên mạng... Lướt qua một trang Web quen thuộc, một dòng tít đập vào mắt tôi: “Nếu một ngày không còn blog?”
  • Nhà văn Đỗ Chu: “Cô đơn được càng tốt !”

    24/11/2005Hồng Thanh QuangNhà văn là người có quyền lật đi lật lại vấn đề mà anh ta quan tâm. Và phải biết lật đi lật lại! Chả có gì mâu thuẫn trong việc này. Thì suốt cuộc đời, người ta ai mà chẳng phải trăn trở, nghĩ ngợi. Đâu phải nhất nhất mọi việc, mọi chuyện đều bất biến... Trong quá trình nhận thức của một đời người, quan trọng là xác lập cho được những câu hỏi lớn, chứ không phải là thuộc lòng vài ba câu trả lời lớn. Biết đặt ra những câu hỏi mới khó!
  • "Cô đơn là bản chất của nghệ sỹ"

    30/09/2005Trần Hoàng Thiên KimLuôn bận rộn với các công việc quản lý, lúc nào cũng nhìn thấy ông tất bật cho việc giao ban, họp hành, báo chí... vậy mà khi đến với thơ thấy ông say sưa như thể những vần chữ đang cuốn ông đi. Với gần 30 tác phẩm gồm đủ các thể loại: thơ, truyện thiếu nhi, kịch, kịch bản phim, tuỳ bút, ký, nghiên cứu văn học, nhà thơ Vũ Duy Thông đã khẳng định được tên tuổi của mình trên văn đàn Việt Nam. Ông vẫn tâm niệm "Thơ là cuộc điều trần với chính mình và lời hoà giải với đồng loại"...
  • xem toàn bộ