“Hoặc là chết, hoặc là sách”

11:55 SA @ Thứ Năm - 07 Tháng Năm, 2015

Trong tác phẩm mới nhất vừa ra mắt Viết, cô đơn và sức mạnh, chị đã thẳng thắn nhìn vào những mặt tối của ý thức cộng đồng và số phận cá nhân trong thời hiện đại, nhìn ra những tương đồng về ý thức hệ của một dân tộc từ xa xưa, sự tương đồng đã trì kéo cả một dân tộc.

Chúng ta nói nhiều đến sự khủng hoảng của các giá trị sống, và đổ lỗi cho nhiều thứ, từ giáo dục, kinh tế thị trường, đến sự thực dụng…

Nhưng chị lại nhìn thấy nguyên nhân chính là bi kịch về sự yếu đuối của cá nhân trước sức mạnh của ý thức cộng đồng đã khiến cho con người trở nên bất lực, bị từ chối, và lớn hơn nữa là tự từ chối quyền làm người.

Cô đơn, “giá trị quý báu nhất đang bị nghiền nát bởi cái áp đảo hiện diện khắp nơi”, đó phải chăng là nguy cơ lớn nhất, khi cái riêng tư không còn được bảo vệ?

Sức viết, sức nghĩ dài, sâu của chị được hình thành nhờ sự giao thoa, đi về giữa hai thế giới.

Viết, nghiên cứu, giảng dạy… chỉ là nhiều mặt của một bản thể con người của chị.

Chị đã giành cho Thế giới tiếp thị cuộc trò chuyện ngay trước khi lên đường sang Pháp.

Nguyễn Thị Từ Huy

Đề cập đến mối quan hệ của nhà văn và nhà phê bình, theo chị, vì sao ở Việt Nam, ít có các nhà văn “chịu” để cho nhà phê bình thuyết phục?

Có lẽ vì nhà văn Việt Nam tin vào cái gọi là tài năng trời phú, tin vào sức mạnh của cảm xúc tức thì, và ít quan tâm tới kỹ thuật, tới nghệ thuật viết, tới tư tưởng và các các phẩm chất tư duy.

Hoặc có thể họ cũng để một số nhà phê bình thuyết phục, nhưng đối với đa số thì đó vẫn luôn là Hoài Thanh, hoặc là thầy giáo trung học hay đại học của họ.

Nếu nhà văn coi viết là một nghề, một nghề chuyên môn hóa như bất kỳ nghề nào khác, họ sẽ coi trọng tất cả những gì liên quan đến kỹ năng nghề nghiệp, và lúc đó họ sẽ có nhu cầu tìm đọc các nhà phê bình, hoặc các nhà nghiên cứu.

Vấn đề còn là ở chỗ: bao giờ đại học của chúng ta có thể đào tạo được các sinh viên đủ trình độ để đọc (nghĩa là đọc và hiểu) các lý thuyết gia tầm cỡ và các nhà văn tầm cỡ của thế giới?

Bởi những học sinh, sinh viên ngày nay còn ngồi trên ghế nhà trường sẽ là các nhà văn của ngày mai.

Giáo dục xuống cấp như thế này, văn hóa xuống cấp như thế này, làm sao có thể mong mỏi có những nhà văn “chịu” để cho các nhà phê bình thuyết phục?

Tôi còn nhớ, khi dạy về Samuel Beckett tôi thường hỏi sinh viên, trước khi bắt đầu dạy, rằng họ có thấy tác phẩm của ông ấy hay không, và câu trả lời tôi nhận được từ sinh viên, cả ngoài Bắc lẫn trong Nam, luôn luôn là: không hay.

Rồi họ ngỡ ngàng khi tôi nói cho họ biết Beckett từng được trao giải Nobel. Và rất trung thực (những sinh viên mà tôi từng dạy vẫn còn là những người trung thực) họ tự nhận rằng khả năng đọc của họ có vấn đề.

Thêm nữa, xã hội của chúng ta được xây dựng trên các ảo tưởng. Những ảo tưởng đó ăn sâu vào tâm thức của từng người.

Thực tế thì tồi tệ như vậy, nhưng thành tích lại luôn chói ngời. Những thành tích không có thực đó củng cố những ảo tưởng dĩ nhiên không có cơ sở thực tế, ở trong đầu mỗi người.

Nhà văn cũng không phải ngoại lệ. Khi các nhà văn tự thấy không cần đọc các nhà phê bình, thì một trong những lí do là họ thấy rằng các nhà phê bình không hiểu họ, rằng họ chẳng cần đến phê bình cũng chẳng cần đến nghiên cứu để làm công việc của họ.

Điều này cũng xuất phát từ sự coi thường học vấn và đề cao trực giác.

Trong khi nhà văn chỉ có thể bay lên cao bằng cả đôi cánh: học vấn và trực giác. Thiếu đi một cánh, họ sẽ bay như thế nào?

Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại: chúng ta có bao nhiêu người đáng được gọi là nhà phê bình hay là nhà nghiên cứu?

Liệu các sản phẩm được gọi là “phê bình văn học” hiện nay có đáng để các nhà văn quan tâm hay không?

Dù sao sách dịch đang càng ngày càng một nhiều lên, và nhà văn không đọc của người này thì cũng vẫn có thể đọc của người khác.

Toàn bộ câu chuyện là ở chỗ họ có “chịu” đọc hay không mà thôi.

Để tiếp cận được với những tư tưởng và hình thức mang tính khai phá, đòi hỏi người thưởng thức phải có cái nhìn như thế nào, để tránh khỏi thói quen phán xét một cách ngu xuẩn, đáng ghét, độc hại… đã cản trở sự hình thành của văn chương hiện đại?

Chỉ khi có sự tự do tiếp nhận này người thưởng thức mới có thể hiểu và tiếp cận được với tự do sáng tạo của nghệ sĩ.


Thói quen phán xét hình thành trên cơ sở những chuẩn mực mà người thưởng thức tin là đúng và đủ, rồi quy chiếu về đó mọi đánh giá về các tác phẩm nghệ thuật.

Tất cả những gì vượt ra ngoài những chuẩn mực ấy đều có nguy cơ bị chối từ, hay thậm chí tệ hơn là còn có nguy cơ bị quy kết, bị trừng phạt, như chúng ta đã thấy trong thực tế đáng buồn của chúng ta.

Muốn tránh được những thói quen phán xét phi nghệ thuật và tai hại đó, ít nhất phải có hai điều (mà tôi đã nói rõ trong bài giới thiệu cuốn “Thế mà là nghệ thuật ư?” của Cynthia Freeland): người thưởng thức phải được giáo dục về thẩm mỹ, và phải có một khoảng trống tự do trong tiếp nhận nghệ thuật, nơi mà mọi định kiến về văn hóa, tôn giáo, chính trị, thẩm mỹ… cần được đặt sang một bên.

Chính khoảng trống này mang lại tự do cho người tiếp nhận.

Và chỉ khi có sự tự do tiếp nhận này người thưởng thức mới có thể hiểu và tiếp cận được với tự do sáng tạo của nghệ sĩ.

Dĩ nhiên, điều cơ bản này thì ai cũng biết: không có nghệ thuật nếu không có tự do sáng tạo, là thứ tự do mà người nghệ sĩ tự ban cho mình, chấp nhận trả giá vì nó, và chẳng ai có thể tước đoạt được của anh ta, trừ chính bản thân anh ta. Tự do thưởng thức cũng vậy.

Chị nghĩ gì về tình yêu, về sức mạnh của tình yêu trong cuộc chiến giữa thiện và ác, giữa hạnh phúc và bất hạnh?

Cho phép tôi được trả lời câu hỏi này bằng một số câu hỏi khác, nảy sinh khi tôi quan sát mọi thứ đang mục nát và đang trong quá trình suy vong, thậm chí diệt vong, của chúng ta hiện nay: “Chúng ta còn biết yêu không, còn biết thế nào là tình yêu không?”

“Có phải sự phá sản của chúng ta trên mọi phương diện đời sống và xã hội hiện nay, có phải việc chúng ta thua đậm và sắp mất hết vào tay Trung Quốc, là hậu quả của sự tàn lụi tình yêu trong lòng mỗi người chúng ta?

Liệu có phải vì trong chúng ta chỉ còn lại nỗi sợ hãi, lòng tham, sự độc ác và mù quáng, và vắng bóng tình yêu?

Có phải vì chúng ta đã không còn biết yêu cái thiện, cái chân thật, cái đẹp, lương tri, không còn biết yêu đất nước, đồng loại, không còn biết yêu cả chính bản thân mình?”

Nàng Mỵ Châu xưa, vì “trái tim nhầm chỗ để trên đầu” mà làm mất nước.

Chúng ta ngày nay, vì đặt trái tim vào vật chất mà tự đẩy mình vào nguy cơ mất nước. Vật chất chỉ nên xem là công cụ phục vụ cho đời sống của con người.

Khi con người lấy vật chất làm mục đích sống thì tình yêu sẽ phá sản, đời sống sẽ đánh mất các giá trị tinh thần và chúng ta sẽ đánh mất sức mạnh tinh thần.

Nhưng rốt cuộc khi các giá trị tinh thần đã mất thì chúng ta cũng không giữ nổi vật chất. Đó là tình thế của chúng ta hiện nay.

Chị hy vọng điều gì ở lần ra đi này?

Victor Hugo, trong tác phẩm “Những người khốn khổ”, đã để cho nhân vật Jean Valjean nói trước khi chết: “chết có sao đâu, không sống được mới thật là đau đớn”.

“Ra đi là chết trong lòng một ít” (Partir, c’est mourir un peu). Tôi mượn câu thơ này của Edmond Haraucourt để nói rằng sẽ tốt hơn nếu tôi không phải ra đi, sẽ tốt hơn nếu tôi có thể ở lại.

Trên thế giới này có bao nhiêu người đã ra đi vì không thể ở lại nơi họ muốn ở?

Tôi ra đi lần này không mang theo hy vọng, chẳng có hy vọng nào để mang theo, mà là để tìm kiếm hy vọng, niềm hy vọng có thể xuất hiện vào lúc nào đó trong những ngày sẽ tới.

Tôi cũng chưa biết nó sẽ xuất hiện dưới hình hài nào, trong dạng thức nào, cụ thể như thế nào. Điều duy nhất có thể nói là sẽ phải tìm kiếm cho đến khi nhìn thấy nó.

“Hoặc là chết, hoặc là sách”? Chị chọn cách nào?

Thế lựa chọn của Marguerite Duras là như vậy: “Hoặc là chết hoặc là sách”. Đã từng có lúc tôi chia sẻ với Duras tình thế này.

Có những giai đoạn mà mỗi ngày tôi đều phải đối diện với câu hỏi này: “Có phải tôi đang thực sự sống không? Có phải là tôi đang không sống được?”.

Victor Hugo, trong tác phẩm “Những người khốn khổ”, đã để cho nhân vật Jean Valjean nói trước khi chết: “chết có sao đâu, không sống được mới thật là đau đớn”.

Bao nhiêu người đã phải tiêu phí những năm tháng của đời họ trong tình cảnh “không sống được”?

Còn trong thời điểm này, tôi, một người Việt Nam, vấn đề hiện tại của tôi, điều mà tôi cần lựa chọn, phải là: “Hoặc là mất nước, hoặc là sách”.

Bởi, nếu mất nước thì thử hỏi mỗi chúng ta còn có thể SỐNG được không? Hoặc câu hỏi được đặt theo một cách khác: nếu mất nước, chúng ta sẽ sống như thế nào? Cả dân tộc sẽ rơi vào tình trạng “không sống được”, chắc chắn như vậy.

FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • ‘I’ve Never Been to Me’, nỗi cô đơn của tự do

    05/06/2017Anh TrâmBài hát là lời nhắc nhở phụ nữ hãy biết trân trọng những gì đang có bởi hạnh phúc chẳng ở đâu xa, chính là từ những điều giản dị của cuộc sống đời thường...
  • Kẻ sĩ xưa và nay: nỗi cô đơn triền miên

    23/05/2014Nguyễn Quang ThânVăn hóa bao giờ cũng chuyển mình rất chậm, qua chọn lọc lâu dài của thời gian, không như giá trị vật chất hay kỹ thuật. Văn hóa là những gì còn được ghi nhớ sau bao thứ bị con người quên đi, nó giống như hạt ngọc còn lại trong con lòng con trai ngọc sau khi cái xác trai thối rữa tan biến thành cát bụi trooi theo dòng nước...
  • Newton và Einstein, Hai người khổng lồ cô đơn

    03/09/2013Phạm Nguyễn Việt HưngCả Einstein lẫn Newton đều có trí tuệ vĩ đại khiến cho mọi người đều biết về những cống hiến của họ và ngoài đó nữa. Newton đã phát minh ra phép tinh vi tích phân, đã phát biểu các định luật của cơ học và đưa ra định luật vạn vật hấp dẫn. Còn Einstein đã đặt cơ sở cho hai toà nhà chọc trời của vật lý hiện đại, đó là thuyết tương đối hẹp và lý hiện đại, đó là thuyết tương đối hẹp và vật lý lượng tử, đồng thời cũng xây dựng một lý thuyết mới về hấp dẫn.
  • Sự cô đơn của đọc

    27/10/2010Bùi Việt PhươngVăn hóa đọc dần bị thay thế bằng văn hóa đọc miệng người khác nói. Từ chỗ mượn mắt của người khác đọc hộ, nghe người khác nói, đến chỗ mượn cả trái tim và khối óc của người khác nghĩ hộ mình, rung động hộ mình, chỉ là một bước ngắn...
  • Cô đơn của viết

    21/07/2010Nguyễn Thị Từ Huy“Nỗi cô đơn của viết là nỗi cô đơn mà không có nó sẽ không có tác phẩm”. Phải chăng Duras muốn nói: thiếu nỗi cô đơn người ta sẽ không làm gì để biểu hiện cái riêng của mình, không nhìn gì bằng con mắt riêng của mình, tức là chỉ thấy điều mà tất cả mọi người đều thấy, và bị nhấn chìm trong đó, trong cái nhìn tập thể vô bản sắc.
  • Cô đơn trên mạng

    04/03/2007Anh NguyễnĐã trở thành một thói quen từ khi nào không biết, sáng nay tôi lại ngồi vào bàn làm việc, bật máy tính và bắt đầu “chu du” trên mạng... Lướt qua một trang Web quen thuộc, một dòng tít đập vào mắt tôi: “Nếu một ngày không còn blog?”
  • Nhà văn Đỗ Chu: “Cô đơn được càng tốt !”

    24/11/2005Hồng Thanh QuangNhà văn là người có quyền lật đi lật lại vấn đề mà anh ta quan tâm. Và phải biết lật đi lật lại! Chả có gì mâu thuẫn trong việc này. Thì suốt cuộc đời, người ta ai mà chẳng phải trăn trở, nghĩ ngợi. Đâu phải nhất nhất mọi việc, mọi chuyện đều bất biến... Trong quá trình nhận thức của một đời người, quan trọng là xác lập cho được những câu hỏi lớn, chứ không phải là thuộc lòng vài ba câu trả lời lớn. Biết đặt ra những câu hỏi mới khó!
  • "Cô đơn là bản chất của nghệ sỹ"

    30/09/2005Trần Hoàng Thiên KimLuôn bận rộn với các công việc quản lý, lúc nào cũng nhìn thấy ông tất bật cho việc giao ban, họp hành, báo chí... vậy mà khi đến với thơ thấy ông say sưa như thể những vần chữ đang cuốn ông đi. Với gần 30 tác phẩm gồm đủ các thể loại: thơ, truyện thiếu nhi, kịch, kịch bản phim, tuỳ bút, ký, nghiên cứu văn học, nhà thơ Vũ Duy Thông đã khẳng định được tên tuổi của mình trên văn đàn Việt Nam. Ông vẫn tâm niệm "Thơ là cuộc điều trần với chính mình và lời hoà giải với đồng loại"...
  • xem toàn bộ