Góp phần tìm hiểu các khái niệm sự vật và thuộc tính
Trong hệ thống các khái niệm của phép biện chứng duy vật, mỗi khái niệm có một vị trí xác định. Nếu các khái niệm của khoa học này được sắp xếp theo thứ tự từ rộng đến hẹp, thì vị trí đầu tiên là khái niệm vật chất và kế tiếp theo sẽ là hai khái niệm sự vật và thuộc tính: bởi vì trong hiện thực khách quan không có cái gì khác ngoài các sự vật và các thuộc tính (tính quy định) của chúng. Sự vật và thuộc tính là hai khái niệm cơ bản của phép biện chứng duy vật phản ánh mọi đối tượng có trong hiện thực khách quan. Với mức độ bao quát đó chúng đã được sử dụng trong các định nghĩa về các khái niệm cơ bản khác như cái riêng cái chung, hiện tượng, bản chất, quy luật mâu thuẫn... Mặc dù vậy,bản thân hai khái niệm này lại ít được nghiên cứu thậm chí chưa được định nghĩa một cách rõ ràng.
Như chúng ta đã biết: trong các sách giáo khoa về phép biện chứng duy vật không có định nghĩa nào về sự vật và thuộc tính. Khi tìm hiểu hai khái niệm này, chúng ta thường căn cứ vào các định nghĩa sau đây được trình bày trong một số từ điển: sự vật là "cái tồn tại được nhận thức có ranh giới rõ ràng phân biệt với những cái xảy ra khác": thuộc tính là "đặc tính vốn có của sự vật nhờ đó sự vật tồn tại và qua đó con người nhận thức được sự vật phân biệt được sự vật này với sù vật khác" là "tinh chất không thể tách rời của sự vật”, là "đặc tính, đặc điểm đánh dấu sự tồn tại của một sự vật". Tuy nhiên, những định nghĩa này lại đang còn tương đối sơ lược và chưa đáp ứng được yêu cầu của phép định nghĩa khái niệm.
Thực vậttheo yêu cầu của phép định nghĩa khái niệm trong định nghĩa khái niệm A bất kỳ nào đó ( trừ khái niệm vật chất), người ta phải quy nó vào một khái niệm B rộng hơn sau đó phải nêu ra được những dấu hiệu chỉ có ở những đối tượng thuộc A để phân biệt với những đối tượng cũng thuộc B nhưng không thuộc A. Chẳng hạn, ở định nghĩa "hình chữ nhật là hình bình hành cógóc vuông”, người ta đã quy khái niệm "hình chữ nhật” (A) vào khái niệm "hình bình hành" (B), đồng thời đã nêu ra được dấu hiệu phân biệt "hình chữ nhật" với ‘hình bình hành nhưng không phải là hình chữ nhật" (dấu hiệu này là có 1 góc vuông).Đối chiếu với yêu cầu của phép định nghĩa khái niệm, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, trong ba định nghĩa về thuộc tính ở trên, các tác giả đã không quy khái niệm thuộc tính vào khái niệm rộng hơn (chỉ có khái niệm vật chất mới rộng hơn khái niệm thuộc tinh), mà quy vào các khái niệm hẹp hơn là tính chất, đặc tính, đặc điểm. Giống như mọi khái niệm khác, hai khái niệm sự vật và thuộc tính có ngoại diên xác định của mình. Ngoại diên của khái niệm thuộc tính gồm vô số đối tượng có
Có tác giả cho rằng:"Sự vật đặc trưng chủ yếu cho mặt gián đoạn, ngắt quãng, tách biệt, còn thuộc tính thiên về biểu đạt mặt liêntục, nối tiếp ràngbuộc của vật chất. Có thể coi sự vật là “điểm" hay “mắt lưới",còn thuộc tính là "diện "hay "mạng lưới"trong cùng một “bức tranh chung" về hiện thực khách quan". Ở định nghĩa này,tác giả tuy đã xem xét hai khái niệm sù vật và thuộc tính trong mối quan hệ không tách rời nhau nhưng chỉ mới đề cập bước đầu đến sù khác nhau giữa hai khái niệm ấy. Do vậy định nghĩa đó cũng chưa phải là một định nghĩa hoàn chỉnh.
Định nghĩa về sử vật và thuộc tính là một vấn đề phức tạp. Cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa nào thật sụ rõ ràng và được thống nhất thừa nhận. Trong khi chờ đợi có được định nghĩa như thế chúng ta có thể và cần phải xác định được những đối tượng thuộc ngoại diên qua khái niệm sự vật và những đối tượng thuộc ngoại diên của khái niệm thuộc tính.
Thông thường, để bảo đảm tính rõ ràng của tư tưởng trước khi sử dụng một khái niệm A nào đó, người ta phai trả lời được câu hỏi "A là gì”? Tuy nhiên, nếu như đã trả lời được câu hỏi những cái gì là A? thì trong một số trường hợp người ta có thể tạm thờichưa cần trả lời câu hỏi Alà gì"? Chẳng hạn, khi sử dụng 10 khái niệm (được gọi là 10 phạm trù) là thực thể số lượng, chất lượng, quan hệ, vị trí, thời gian, tư thế, sở hữu, hoạt động, thụ động. Arixtốt không trả lời các câu hỏi thực thể là gì? chất lượng là gì?... thay vào đó ông đã trả lời các câu hỏi "cái gì là thực thể”? "cái gì là chất lượng”? (
Tương tự như vậy, để bảo đảm tính rõ ràng của tư tưởng khi sử dụng các khái niệm sự vật và thuộc tính trong điều kiện câu hỏi sự vật và thuộc tính là gì? chưa được trá lời một cách rõ ràng thì chúng ta cần phải trả lời được câu hỏi "những cái gì là sự vật và thuộc tính?". Phương pháp trả lời câu hỏi nào là tìm trong các mệnh đề, trước hết là trong các mệnh đề đơn giản, những từ chỉ sự vật và những từ chỉ thuộc tính. Bởi vì sự vật và độc tính là hai khái niệm cơ bản của phép biến chứng trong bất cứ mệnh đề nào chúng cũng đều được biểu đạt bởi những từ nào đó và do đó thông qua phân tích các mệnh đề, chúng ta có thể tìm ra những ví dụ về hai khái niệm này.Phương pháp phân tích các mệnh đề đề tìm ra các yếu tố của phép biện chứng đã được Lênin chỉ ra như sau: trong bất cứmệnh đề nào, cũng có thể (và phải) tìm ragiống như trong một "cái ngàn tổ ong" (tế bào), những mầmmống của tất cảnhũng yếu tố của phép biện chứng".
Chẳng hạn, ở mệnh đề "con ngựa này màu trắng, con ngựa kia màu đen" thì con ngựa này và "con ngựa kia" là hai từ chỉ hai sự vật còn "màu trắng" và "màu đen" là hai từ chỉ hai thuộc tính, đó là thuộc tính màu trắng và thuộc tính màu đen. Màu trắng và màu đen là hai thuộc tính
Ở mệnh đề “cái này là một cái cốc” thì “cái này” là từ chỉ một sựvật. Nhưng vấn đề phức tạp là ở chỗ "cái cốc" là từ chỉ một sự vật hay là từ chỉ một thuộc tính? Trong hiện thực khách quan có vô số sự vật được gọi là "cái cốc”. Sở dĩ các sự vật khác nhau đều được gọi bằng từ ấy là vì chúng đều có một thuộc tính chung nào đó. Từ “cái cốc" trong mệnh đề nói trên chính là dùng để chỉ thuộc tính
Nếu như cái cốc là một thuộc tính chung: thì cái nhà nguyên tử, phân tử, sinh vật, thực vật quả cam, quả ôi, động vật, ngựa, người, đàn ông, đàn bà, tư sản, vô sản... cũng là những thuộc tính chung.
Một thuộc tính
Trong trường hợp mọi sự vật có thuộc tính S đều không có thuộc tính P ngược lại mọi sự vật có thuộc tính P đều không có thuộc tính S thì quan hệ giữa S và Plà không điều hòa.
Mỗi thuộc tính được biểu đạt bằng một từ. Trong tư duy, mỗi từ dùng để biểu đạt một thuộc tính
Không những mỗi thuộc tính được biểu đạt bởi một tử. mà mỗi sự vật cũng được biểu đạt bởi một từ. Trong hiện thực khách quan có vô số sự vật khác nhau. Về lý thuyết các sự vật khác nhau có thể được biểu đạt bởi các từ khác nhau hay trong hiện thực khách quan có bao nhiêu sự vật thì có thể có bấy nhiêu từ. Song, trong nhận thức. một từ có thể được chúng ta dùng để chỉ nhiều sự vật. Ví dụ nhiều người có cùng một tên gọi, tên gọi ấy là một từ, đó là từ đa nghĩa được dùng để chỉ nhiều đối tượng mà mỗi đối tượng ở đây là một sự vật (mỗi nghĩa tương ứng với một sự vật). Khác với từ đa nghĩa, từ cái cốc nói ở trên chỉ có một nghĩa được dùng để chỉ một đối tượng: đối tượng nào là một thuộc tính chứ không phải là một sự vật. Thuộc tính cáicốc tồn tại ở một lớp gồm nhiều sự vật khác nhau. Điều đó đôi khi làm cho chúng ta lầm tưởng rằng cái cốc không phải là một thuộc tính.
Tóm lại, trong hiện thực khách quan có vô số đối tượng được gọi là sự vật và vô số đối tượng được gọi là thuộc tính. Sự vật nào cũng có nhiều thuộc tính, thuộc tính nào cũng tồn tại ở một hoặc ở nhiều sự vật. Nhờ có thuộc tính mà chúng ta mới biết được một sự vật nào đó là gì, nó giống và khác với các sự vật khác như thế nào. Sự vật và thuộc tính là hai khái niệm khác nhau. Khái niệm thuộc tính dùng đề chỉ các đối tượng như màu trắng, màu đen, tốt, xấu, cái cốc, cái nhà, ngựa, người đàn ông, đàn bà, tư sản, vô sản... còn khái niệm sự vật dùng để chỉ các đối tương như cái màu trắng này hoặc cái màu trắng kia, cái cốc này hoặc cái cốc kia, cái nhà này hoặc cái nhà kia, người này hoặc người kia... Tuykhông thể xác định được đầy đủ tất cả các đối tượng thuộc ngoại diên của hai khái niệm này, bởi số lượng các đối tượng ấy là vô cùng lớn nhưng từ những đối tượng vừa nêu chúng ta có thể suy ra được nhiều đối tượng khác.
Trong khi chưa có được một định nghĩa rõ ràng về sự vật và thuộc tính,việc xác định ngoại diên của hai khái niệm ấy là rất cần thiết vì đó là một cơ sơ quan trọng giúp chúng ta tìm hiểu các khái niệm khác hẹp hơn của phép biện chứng duy vật, kể cả các khái niệm cơ bản như cái chung,cái riêng: bản chất, hiện tượng, tất nhiên, ngẫu nhiên. mâu thuẫn, quy luật... Xác định ngoại diên của hai khái niệm sù vật và thuộc tính là một vấn đề ít được đề cập đến trong các sách báo triết học. Để làm rõ vấn đề này cần phải có những nghiên cứu sâu sắc hơn.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường