Dương Bá Trạc – một văn nhân, chí sĩ Hà Nội
Dương Bá Trạc (1884-1944) - nhà cách mạng, nhà báo, nhà văn Việt Nam thời Pháp thuộc. Theo Vũ Ngọc Phan, trong các nhà văn đi tiên phong ở nửa đầu thế kỷ 20, ông được kể là một người lỗi lạc...
Dương Bá Trạc, biệt hiệu Tuyết Huy, sinh ngày 22 tháng 4 năm 1884, quê làng Phú Thị, nay thuộc xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Là người rất thông minh, mới 16 tuổi, Trạc đã thi đỗ cử nhân (khoa năm Canh Tý 1900, cùng năm với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng… nhưng khác trường thi).
Đỗ đạt rồi, Trạc không ra làm quan như thói thường. Ông ôm khát vọng thức tỉnh quốc dân khỏi cơn mê nô lệ, chống sự đô hộ của thực dân đế quốc. Ông từng cùng Phan Châu Trinh đi diễn thuyết nhiều nơi, cổ động chủ nghĩa duy tâm tự cường, cùng Tăng Bạt Hổ lên thăm Đề Thám ở Nhã Nam, đi suốt từ Bắc vào Nam để gặp gỡ bạn bè, chiêu mộ đồng chí.
Cuối 1906, ông cùng các bạn Nguyễn Quyền, Lê Đại, Lương Văn Can… lập Đông Kinh Nghĩa Thục, một trường tư giảng dạy những tư tưởng mới, khác lối học từ chương, khoa cử trước đây. Trường khai giảng từ tháng 3-1907, trụ sở đặt tại phố Hàng Đào. Lương Văn Can làm thục trưởng (hiệu trưởng). Dương Bá Trạc vừa trực tiếp giảng dạy, vừa ở trong Ban Tu thư, viết giáo án, soạn sách đọc…
Ảnh hưởng Đông Kinh Nghĩa Thục lan rộng, trở thành một phong trào học tập có tính yêu nước, đoàn kết. (Buổi diễn thuyết người chen như hội Kỳ binh văn khánh tới như mưa), khiến thực dân Pháp lo sợ. Chúng ra lệnh đóng cửa trường vào tháng 12 năm 1907.
Dương Bá Trạc hiểu phải tính đến cách vũ trang khởi nghĩa mới đạt mục đích giải phóng đất nước. Ông cùng bạn bè chia nhau, người mở hiệu buôn kiếm tiền để tìm mua vũ khí, người lên Nhã Nam bàn với Đề Thám lập khu căn cứ, bản thân ông cùng một số đồng chí sang tận Lào lo vận chuyển khí giới từ Xiêm (Thái Lan) về nước.
Hoạt động của Trạc và bạn bè không lọt qua mắt cú vọ của thực dân. Lấy cớ các vụ biểu tình chống sưu cao thuế nặng nổ ra ở miền Trung là có sự “xúi giục” của các nhân sĩ Đông Kinh Nghĩa Thục, chúng ra tay khủng bố bắt bớ. Và phiên xử của Hội Đồng Đề Hình Hà Nội ngày 15 tháng 10 năm 1908 kế án Nguyễn Quyền, Vũ Hoành, Lê Đại khổ sai chung thân, Dương Bá Trạc 15 năm tù khổ sai. Đáng chú ý là cả thân phụ Trạc, cụ Dương Trọng Phổ, một nhà nho yêu nước cũng bị bắt theo và kết án 5 năm khổ sai. Cả hai cha con cùng bị giải từ Hỏa Lò, Hà Nội đi Hải Phòng để xuống tàu ra Côn Lôn (Côn Đảo). Trạc đã làm thơ tức cảnh:
Nghịch cảnh trên đời dễ nhất tôi
Vào tù, rinh cả bố vào nuôi
Quốc tai, gia biến chung làm một
Công nghĩa, tư tình nặng cả hai.
Cuối năm 1910, thực dân thả Trạc về, nhưng bắt an trí ở Long Xuyên (Nam Kỳ). Đến 1917, toàn quyền Anbe Xarô mới ký nghị định “ân xá” cho Trạc về Hà Nội.
Mặc cho đích thân Xarô ra sức “phủ dụ”, mời ra giúp “chính phủ bảo hộ”, hứa chức cao lộc hậu, Trạc kiên quyết từ chối, xoay sang viết văn làm báo. Ông viết các báo Nam Phong, Trung Bắc tân văn, một là có công việc chính thức để kẻ thù bớt để ý, hai là hy vọng dùng ngòi bút góp phần khai thông dân trí, chấn hưng đạo đức. Khoảng 1932-1935, ông đứng làm chủ bút Văn học tạp chí, sau đó là Đông Tây báo. Ông cùng những người khác tham gia soạn thảo bộ Việt Nam tự điển và Việt Nam văn phạm. Một số bài báo ông viết thời kỳ này được tập hợp thành sách đặt tên Tiếng gọi đàn (1936). Những bài thơ và câu đối của ông được in thành tập Nét Mực Tình (1937).
Ngoài thì như vậy, bên trong Dương Bá Trạc vẫn nung nấu ý chí làm việc lớn, bí mật liên lạc với các bạn cùng chí hướng, tích cực chuẩn bị, chờ thời cơ… Rồi phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, thấy Dương Bá Trạc là nhà trí thức có uy tín, chúng tìm cách tranh thủ, hy vọng dùng ông là con bài chính trong tay chúng. Song âm mưu đó thất bại, chúng bèn dùng thủ đoạn đê hèn là lừa bắt ông vào một khách sạn Nhật ở Hà Nội, rồi từ đó “bốc” đưa ông sang Singapore, lúc đó Nhật gọi là Chiêu Nam, do quân Nhật chiếm đóng. Cùng bị lừa bắt như ông, có ông Trần Trọng Kim.
Đương thời, một số người nghĩ rằng Dương Bá Trạc đã “đi theo Nhật”. Sự thật là quân Nhật đưa hai ông Trạc và Kim sang Singapore rồi… bỏ đó, không hề cùng các ông bàn công việc gì. Phải thúc thủ ngồi trong tâm trạng u buồn. Dương Bá Trạc sinh bệnh và mất ngày 11 tháng 12 năm 1944 tại Singapore, trong lòng ôm mối hận chưa thỏa được chí cứu nước.
Trong lễ truy điệu Dương Bá Trạc tại Hà Nội năm 1945, nhiều nhân sĩ trí thức đã đến dự và có câu đối viếng. Cụ Bùi Kỷ đọc điếu văn có hai câu kết như sau:
“Ngẫm cho phải, thác thì đành hẳn, thác để tuổi để tên, để lại một đời tiết nghĩa, thác cũng là vinh
Suy đến nơi, sống phải thế nào, sống còn nhà, còn nước, còn muôn nỗi ưu nan, sống sao khỏi hổ”. 1)
Dương Bá Trạc mất đi, để lại tấm gương một người yêu nước suốt đời sống trong sạch, bôn ba lận đận với hoài bão thức tỉnh quốc dân, giải phóng đất nước. Ngoài ra ông còn để lại một sự nghiệp văn chương có chỗ đứng nhất định trong lịch sử văn học nước nhà. Trong tác phẩm “Nhà văn hiện đại” xuất bản năm 1942, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã xếp ông vào phần “Các thi gia” cùng với Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Đoàn Như Khuê, Trần Tuấn Khải. Tổng tập Văn học Việt Nam tập 25 do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 1991, cũng dành cho ông vị trí xứng đáng, xem ông là một trong 20 tác giả có tên tuổi của thời kỳ trước năm 1930. Chính Dương Bá Trạc là tác giả bài thơ “Vào hè” nổi tiếng “Ai xui con cuốc gọi vào hè? Cái nóng nung người nóng nóng ghê, Ngõ trước vườn sau um những cỏ, Hồng rơi thắm rụng tiếc cho huê…” luôn được đưa vào sách giáo khoa, cả thời trước cách mạng và thời nay.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, trên địa bàn hai phường 1 và 2 của quận 8, hiện có một đường phố mang tên Dương Bá Trạc. Hà Nội đã có những phố mang tên Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Tăng Bạt Hổ… là những đồng chí gần gũi của Dương Bá Trạc. Thiết tưởng nếu có một đường phố mang tên Dương Bá Trạc thì cũng là xứng đáng.
Dương Bá Trạc đã để lại các tác phẩm: Ngoài ra, ông còn viết những bài xã thuyết (có tính cách luân lý, xã hội hay liên quan đến kinh tế, chính trị đương thời), nhiều câu đối, dịch Hán văn và viết ký truyện. |
Ghi chú:
1)
... Ông Cử Dương,
Trời phú thông minh, đất chung linh tú,
Cơ cừu nguyền gìn giữ nếp nhà,
Lều chiếu vẫn theo nghiệp cũ.
Song đèn sách là nơi rèn luyện, ông đã rõ cương thường đạo lý, há theo đời quỳ gối khom lưng.
Vả non sông là gốc sống còn, ông đã mang khí phách can tràng, sao chịu nhục đè đầu cưỡi cổ.
Bởi thế:
Hội Duy tân đến bước với trào lưu,
Nhóm cách mệnh rầu lòng về lãnh thổ,
Ra công huấn luyện nào Nghĩa Thục Đông Kinh,
Hết sức hô hào, nào Tùng báo Đăng cổ.
Tuy tay không khôn chống chọi với cường quyền,
Nhưng khí chính cũng thế trùng cho nghịch lỗ.
Khi Côn Đảo màn trời chiếu đất, chân lao lung mà cổ vẫn quật cường,
Khi Long Xuyên cơm giỏ nước bầu, thân cơ đích mà đâu hàng tự chủ.
Kể từ lúc 22 tuổi, hiến thân cho nước, chỉ những toan rửa sạch không hổ nước hờn dân,
Đến về sau hơn 10 năm đổi sĩ làm tù, may còn sống để trở lại quê cha đất tổ.
Thiết cưỡng tùng ma chiết nhiều phen,
Tuế nguyệt luống sa đà lắm độ,
Đời vẫn lầm than man mác, những là dong mắt suốt năm canh,
Người đâu gỗ đá trơ trời, sao chịu bó tay ngồi một chỗ.
Việc của đời, chan chứa, sức đang nổi bao giờ cũng có.
Quay sang Nhật, hồi chuông cảnh tỉnh, đạo từ bi mong giảng cho tinh.
Trở về Nho, ngọn bút hùng hồn, nền luân lý muốn bàn thực rõ.
Tính việc công, già cũng quên già,
Theo nghĩa lớn, khó không ngại khó.
Đang tính phương ngoài vùng vẫy, rủ nhau đồng chí đợi thời cơ,
Người đâu cõi xa xăm, rút cục âm mưu thua định số.
Sáu mươi tuổi lòng son tóc bạc, lúc phân lỳ còn hẹn lúc trùng phùng, mà nay đã chia đường kim cổ.
Ôi! Ngày thanh không ngừng,
Công trình chưa bỏ.
Đọc bài Chính kiến, dường nghe sang sảng lời vàng,
Xem tập Nét tình, nhỡ thêm đầm đầm máu đỏ.
Ngán khẽ khuôn thiêng quá hẹn, luốn để ai lỡ vận sai thời.
Thương thay! Khối giận chưa tan, chờ đến lúc tuân mây dậy gió.
Chúng tôi đây:
Khắp mặt gần xa,
Đủ hàng thân cố,
Dâng nén hương viếng trước anh hồn,
Nhờ sức Phật đưa về tĩnh độ.
Giả phỏng bây giờ còn sống, phút chốc bàn cờ thay ván khác, nhìn lại nhìn, dạ cũng nguôi nguôi
Tiếc thay vội vã làm chi, lờ mờ ngọn biển cách mây xa, nhớ lại nhớ, sầu càng vò võ.
Ngẫm cho phải, thác thì đành hẳn, thác để tuổi để tên, để lại một đời tiết nghĩa, thác cũng là vinh.
Suy đến nơi, sống phải làm thế nào, sống còn nhà còn nước, còn muôn nỗi ưu nan, sống sao khỏi hổ.
(Trích Điếu văn của cụ Phó bảng Bùi Kỷ, đọc tại lễ truy điệu Dương Bá Trạc, ngày 18-3-1945)
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiHư học hư làm, hư tài
16/04/2014Nếu lãng quên lịch sử
13/02/2014Nguyên CẩnTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpSống chậm giữa đời nhanh
02/07/2010Lê Thiếu Nhơn