Đạo đức học & triết lý nhân sinh
2. Triết lý của Socrtes.
3. Triết lý của Arstotle về sự tự phát triển năng lực
4. Triết lý khoái lạc của Epicurus.
5. Triết lý khác kỷ của Epicurus.
6. Triết lý vị lợi của Jeremy Bentham.
7. Triết lý vị lợi của John Stuart Mill
8. Thuyết Trực Giác của Immanuel Kant.
9. Triết Lý yếm thế của Arthur Schopenhauer
10. Triết lý tự nhiên của Friedrich Wihelm Nietzche.
11. Triết lý trung thành của Josiah Royce
12. Chủ nghĩa Hiện Thực Đạo Đức của George Edward Moore
1. Phạm vi khảo cứu
Ý nghĩa triết học của thuật ngữ "Đạo đức học" (Ethics) bao quát một phạm vi rộng hơn nhiều so với nghĩa hạn hẹp của nó trong câu “đạo làm người trong đời” (man on the street) - đạo đức được xét đến trong khuôn khổ chọn lựa cung cách ứng xử. Khía cạnh được các triết gia quan tâm đến, có ý nghĩa quan trọng hơn thế. Nó khảo sát đến cuộc sống tốt lành - nói cách khác, một cuộc sống đáng sống, cuộc sống toàn mãn.
Các triết gia xem vấn đề trọng tâm của Đạo đức cần được khai phá là “the summum bonum” hiểu là “lẽ chí thiện tận mỹ của cuộc đời.” Một khi “lẽ chí thiện tận mỹ” đã thành hình, mọi sự phải-trái, đúng-sai đều có thể được xác định một cách đơn giản. Hành vi được xem là đúng đắn khi nó góp phần nâng cao nhận thức về lẽ chí thiện ấy; trong khi hành vi sai trái lại có ảnh hưởng cản trở khuynh hướng nhận thức ấy. Từ những nhận định trên, người ta có thể kết luận rằng Đạo đức học bao hàm hai lãnh vực, tạm gọi là “cách xử thế đúng mực” và “lẽ chí thiện tận mỹ trong đời”. Qua đó, Đạo đức học có thể được định nghĩa như là bộ môn nghiên cứu đức hạnh và lẽ Chân-Thiện-Mỹ trong cuộc đời.
Sau khi xác định thuật ngữ “Đạo đức học” như là môn học nghiên cứu lẽ Chân-Thiện-Mỹ trong đời, chúng ta cũng cần phải xem xét đến mối liên quan giữa nó với các thuật ngữ khác, thí dụ như đạo đức (moral),trái đạo đức (immoral), trái đạo lý (unethical), phi đạo đức (nonmoral). Giữa đạo (ethics) và đức (morals) có mối quan hệ tương tự như giữa lý thuyết và thực hành vậy. "Đạo" ám chỉ đến lý thuyết về lẽ Chân-Thiện-Mỹ trong đời (đạo học), trong khi "đức" ngụ ý đến việc thực hành đạo lý ấy trong cuộc sống đời thường.
Thuật ngữ "đức" có một nghĩa kép. Nghĩa đầu tiên ám chỉ đến khả năng nhận thức và đưa ra các quyết định phù hợp với nguyên tắc đạo lý. Nghĩa thứ hai ám chỉ đến sự thể hiện đạo hạnh qua hành trang trong đời sống thực tế.
Với nghĩa thứ nhất của thuật ngữ "đức", chúng ta tìm thấy thuật ngữ tương phản với nó là “vô đức” (hay phi luân-amoral), hàm nghĩa không có khả năng phân định lẽ đúng-sai. Với nghĩa thứ hai của “đức”, chúng ta có thuật ngữ tương phản là “trái đạo đức” (hay trái luân lý-immoral), ám chỉ chó những hành động vi phạm các chuẩn mực đạo đức (thông thường, hai thuật ngữ "phi đạo đức" và "phi luân" có thể được sử dụng thay đổi qua lại cho nhau.)
Bên cạnh đó, chúng ta cần phân biệt giữa "đạo đức cá nhân" (personal ethics), nhấn mạnh đến những chuẩn mực đạo đức áp dụng chó các cá nhân, và “đạo đức xã hội” (social ethics) vốn liên quan đến các hệ thống luân lý cộng đồng. Xét luân lý là nền tảng đạo đức của một xã hội hay một quốc gia, đạo đức xã hội có thể được xem là tương đồng với triết học chính trị và xã hội. Ngược lại, đạo đức cá nhân chỉ giới hạn trong thái độ ứng xử của mỗi con người.
Cũng cần chú ý rằng, trong phần thảo luận này, Đạo đức học sẽ được diễn giải rộng rãi, không chỉ bó gọn trong khuôn khổ các ý tưởng và hành vi tuân thủ theo một hệ thống quy tắc đạo đức chuẩn mực. Nói cách khác, nó bao hàm có triết lý nhân sinh, nền tảng của “đạo làm người” trong cuộc đời (the way of life).
2. Triết lý của SCORATES
Socrates(470-399 trước CN) là một trong những tư tưởng gia Hy Lạp cổ đại đầu tiên kêu gọi giới học giả và các nhà lãnh đạo quốc gia đương thời, những người quá chú tâm đến các công trình nghiên cứu thế giới tự nhiên, nên quan tâm nhiều hơn đến bản chất của con người.
Đối với Socrates, con người là đối tượng đáng được quan tâm hơn cả và bất cứ điều gì ảnh hưởng đến con người đều có tầm quan trọng quyết định. Tri thức về thế giới tự nhiên bên ngoài (vũ trụ học-cosmology), nếu không có ý nghĩa thiết thực đối với cuộc sống con người, chỉ có tầm quan trọng thứ yếu. Mọi tri thức có liên quan đến bản chất và cuộc sống của con người đều đáng được sở hữu và cần phải được tích luỹ. Hơn nữa, theo cách nói của Socrates, “cuộc sống vô minh (the unexamined life) thì không đáng để sống.”
Tự biết mình
Tự biết mình, hoàn toàn biết rõ bản chất ý thức lẫn vô thức của chính mình, là động cơ tạo nên năng lực, sự tiết độ và thành đạt. Các cá nhân gặp phải khó khăn trong đời phần lớn bởi vì họ không thực sự hiểu biết được sự hiểu được bản chất, khả năng, giới hạn, động cơ-toàn bộ cung bậc tính cách của chính họ. Thực chất, họ cần đến một tấm gương "tâm lý" có khả năng giúp họ nhận ra bản ngã của chính mình, bao gồm toàn bộ ưu khuyết điểm và tiềm năng thực tế của họ.
Một người thực sự tự biết mình sẽ đạt được thành công trong cuộc sống, bởi lẽ anh ta biết chính xác những gì nằm trong khả năng của mình cũng như cách thức vận dụng chúng. Ngược lại, một người không tự biết mình sẽ tiếp tục vấp ngã, thậm chí đi đến những huỷ hoại cả cuộc đời.
Hầu hết mọi người đều cho rằng tự biết rõ chính mình, rằng “không ai gần gũi ta hơn chính bản thân bản thân ta.” Tuy nhiên, tự tin không có nghĩa là tự biết mình. Thực ra, một người khôn ngoan và từng trải có thể "biết " về bạn nhiều hơn chính bạn đấy! Socrates đã đặt ra câu hỏi: “ Phải chăng bạn cho rằng bạn tự biết mình, đơn giản chỉ vì bạn sở hữu cái tên của mình?”. Ông cũng chỉ ra rằng, nếu chỉ muốn biết về con ngựa, chúng ta phải nắm được tuổi đời , sức vóc và tình trạng sức khoẻ của nó, từ đó mới có thể xác định được mức độ nhanh nhẹn và khả năng làm việc của nó. Nguyên lý này cũng áp dụng đúng với con người để hiểu chính mình, con người trên cõi đời. Quá trình tìm hiểu bản thân đòi hỏi không ít nỗ lực. Nói cho cùng, tự biết mình là mọt lẽ thiện trong đời.
Đức hạnh là tri thức
Đối với Socrates, bất cứ ai biết điều gì là đúng đắn tất sẽ thực hiện điều đó. Hành vi sai trái chỉ xuất phát từ sự vô minh. Một người có hành động không đúng bởi vì, và chỉ vì, anh ta không biết cái gì là đúng đắn. Không có một người tỉnh táo và lành mạnh nào lại chủ tâm làm tổn hại bản thân mình. Nếu anh ta thực sự làm một điều như vậy, đơn giản chỉ vì phạm phải sai lầm nào đó trong quá trình hành động, hoàn toàn không phải do cố ý. Không ai chủ định chọn lựa điều sai trái, bởi lẽ hành vị tội lỗi luôn mang đến tai hoạ cho bản thân họ và người khác.
Nếu thấu hiểu hậu quả thực sự của trộm cắp, dối trá, lừa đảo, thù hằn và các hành vi tội lỗi khác; nếu biết được chúng sẽ gây tổn hại như thế nào cho bản thân họ, chẳng hạn như sự sa đoạ về mặt tinh thần và sự thoái hoá về mặt nhân cách, chắc chắn con người sẽ tự giác né tránh chúng. Thiếu nhận thức đúng đắn chính là lý do duy nhất khiến một số người không thể kiềm chế được chính mình trước những cám dỗ tội lỗi; bởi lẽ bất cứ người nào biết điều gì là đúng đắn tất sẽ thực hiện điều đó.
Đức hạnh là hạnh phúc
Theo Socrates, đức hạnh không chỉ là tri thức, bản thân nó cũng đồng nghĩa với hạnh phúc. Bởi lẽ, hành vi đạo đức cũng chính là hành vi mang đến những điều tốt đẹp cho người thực hiện nó. Hạnh phúc kết thành quả từ đó.
3. Triết lý của ARISTOLE về sự tự phát triển năng lực
Aristotle (384-322 trước CN) đã phát triển một hệ thống tư tưởng đạo đức học có thể được gọi là "Thuyệt tự phát triển nhận thức" (Self-Realizationism). Nó được hình thành trên quan niệm cho rằng cuộc sống tốt đẹp (hay hạnh phúc) là kết quả của sự phát triển toàn mãn năng lực, thiên tư và nhân cách của một con người. Trong quá trình đó, cá nhân phải chuyển toàn bộ tiềm năng của mình thành những giá trị thực.
Một đưa bé sơ sinh chưa phải là con người, chỉ là một cá nhân tiềm tàng. Để trở thành một con người thực sự, tiềm năng của nó phải được “nhận thức và phát triển.” Thí dụ: Đứa bé ấy có thể tiềm ẩn khả năng cảm nhận âm nhạc như Beethoven, nhưng nếu không nhận thức được tài năng của mình hoặc không có cơ hội phát huy tài năng ấy, nó vẫn chỉ là một "nhạc sĩ tiềm tàng" cho đến khi phát hiện ra thiên tư và hoàn thiện kỹ năng âm nhạc của mình.
Theo Aristotle, mục đích chính đáng nhất của con người trong đời là nhận thức bản chất thực sự (hoặc nhân cách) của mình một cách toàn diện, là phát triển các tiềm năng cuả mình đến độ viên mãn và từ đó, tự hoàn thiện chính mình. Một cá nhân không thực hiện được điều này sẽ luôn dằn vặt, tự bất mãn với chính mình hậu quả của những thất bại trong đời. Sự suy sụp tính thần ấy bộc lộ rõ ràng qua các biểu hiện buồn chán, đau khổ- những dấu hiệu của một cuộc sống bất hạnh. Ngược lại, người nào nhận thức và phát huy được bản chất cũng như năng lực tiềm ẩn của mình sẽ có được cuộc sống thoả nguyện- một đời sống hạnh phúc.
Thiên nhiên chẳng hành sự vô ích
Aristotle tin tưởng sâu sắc rằng “Thiên nhiên chẳng hành sự vô ích.” Trong thiên nhiên, vạn vật và mọi sự đều có nguyên nhân cũng như mục đích tồn tại của nó. Con người sinh ra ở đời có mục đích tự nhiên riêng, có chức năng và mục tiêu riêng của họ. Các tạo vật thiên nhiên hoàn tất được mục đích của chúng trong đời sẽ mang đến cái đẹp, sự thoả nguyện và hạnh phúc.
Hãy so sánh con người với một hạt giống. Khởi đầu như một mần sống- một “đoá hoa tiềm tàng”, hạt giống bán rễ vào đất, đầm chồi, lớn thành cây rồi nảy hoa kết quả. Nó phải trải qua một quá trình phát triển trước khi đạt đến sự hoàn chỉnh, sự thăng hoa và thành tựu viên mãn giá trị của một đời. Tương tự như thế, con người mới sinh ra đời chỉ là một tổ hợp của nhiều tính cách và năng lực tiềm ẩn. Trong điều kiện thích hợp và với nỗ lực thích hợp, anh ta có thể phát huy tài năng của mình - trở thành một tạo vật hoàn mỹ, một con người hạnh phúc và thành tựu viên mãn một cuộc đời.
Hạnh phúc-Lẽ chí thiện tận mỹ
Con người, như Aristotle khẳng định, theo đuổi rất nhiều mục tiêu trong đời, nhưng mục đích tối hậu mà anh ta mưu cầu suốt một đời chính là Hạnh Phúc. Tất cả mục tiêu khác chỉ là phương tiện để đạt đến hạnh phúc, dạng mục đích luôn được khao khát thành tựu lấy chính nó. Thí dụ: Tiền bạc chỉ là phương tiện, không phải là mục đích tối hậu. Nó là loại vật dụng cho phép sở hữu chủ mua sắm những vật dụng khác, góp phần vào cuộc sống hạnh phúc cá nhân của anh ta. Tương tự như vậy, công việc hàng ngày, đời sống hôn nhân, các hoạt động xã hội và các dạng tài sản khác là những nguồn nuôi dượng hạnh phúc của một con người. Mưu cầu hạnh phúc mang đến mục đích và ý nghĩa cho cuộc sống. Thực tế, nếu một cá nhân bị tước đoạt cơ hội vươn đến hạnh phúc, mối quan tâm của anh ta dành cho cuộc sống, cũng như ước muốn tiếp tục tồn tại trong đời, sẽ chấm dứt.
Con đường vươn đến hạnh phúc
Theo Aristotle, sự thành tựu hạnh phúc tuỳ thuộc hoàn toàn vào quá trình phát huy tiềm năng và thiên tư của mỗi cá nhân. Tiến trình nhận thức ấy mang đến đời sống hạnh phúc. Hơn nữa, một viễn cảnh hạnh phúc sáng lạn hơn. Ngược lại, khi tiềm năng bản thân bị bỏ phế, ngủ quên và thui chột đi, cá nhân sẽ không tránh khỏi một đời sống tự dằn vặt, khổ đau và suy sụp. Theo Aristotle, Thượng Đế sáng tạo ra con người có mục đích. Không nhận thức ra được mục đích của mình, con người sẽ không bao giờ cảm thấy thoả mãn với cuộc đời; nhận thức và thực hiện được mục đích ấy, con người mới tìm thấy sự thoả nguyện, hạnh phúc và cái đẹp của cuộc sống.
Hình thức tối cao của hạnh phúc
Như đã trình bày ở trên, Aristotle đồng nhất cuộc sống "chí thiện tận mỹ" (the summun bonum) với hạnh phúc; hạnh phúc vươn đến chỗ siêu việt khi con người nhận thức ra được bản chất tối thượng của chính mình. Bản chất tối thượng ấy được tìm thấy trong lãnh vực tâm hồn, ở khía cạnh tinh thần của cuộc sống- khía cạnh riêng biệt của giống người. Hoạt động viên mãn của tư tưởng (ở các lĩnh vực khoa học, triết học, nghệ thuật, tôn giáo, v.v... ) chính là nguồn gốc phát sinh ra niềm hạnh phúc tối thượng. Năng lực tối cao của trí tuệ con người là tư duy, vì thế suy tư chiêm nghiệm chính là nguồn hoan lạc lớn nhất của con người.
Ba dạng bản chất của con người
Aristotle khẳng định rằng có 3 dạng bản chất tồn tại đồng thời trong mỗi con người: bản chất thực vật (thể chất), bản chất động vật (cảm tính) và bản chất lý trí (nhân tính). Cả ba dạng này cần phải được thành tựu một cách viên mãn. Hơn nữa, quá trình nhận thức và thành tựu mỗi dạng bản chất sẽ mang đến một niềm hạnh phúc riêng.
Xét bản chất thực vật, sức khoẻ tốt mang đến một cảm giác an lành, thư thái. Nó cần được duy trì bằng các hoạt động thể dục phù hợp, kết hợp với sự quan tâm thích đáng dành cho thân thể và sức khoẻ của bản thân. Bản chất động vật của con người đòi hỏi sự thoả mãn trong các lạc thú thuộc về bản năng như: ăn ngon miệng, nghe êm tai, ngủ đẫy giấc, v.v... Tuy nhiên, chỉ khi thành tựu bản chất lý trí, phát huy toàn mãn tiềm năng trí tuệ thông qua các hoạt động tư duy, con người mới đạt đến niềm hạnh phúc tối thượng.
Vì thế, một cuộc sống thư thái có ý vị siêu việt hơn so với kinh nghiệm thể chất và cảm tính; cuộc sống trí tuệ là cuộc sống mang tính nhân bản hơn cả. Đó là cuộc sống quan tâm và cống hiến cho âm nhạc, hội hoạ, kịch nghê, mỹ thuật, triết học, văn chương, khoa học, chính trị, xã hội, tôn giáo, v.v...- tất cả những lãnh vực trí tuệ khác thuộc về hoan lạc riêng biệt của giống người, hoàn toàn nằm ngoài khả năng nhận thức của các tạo vật khác trong thiên nhiên.
Tiết độ trong mọi sự
Aristotle đồng hóa cung cách ứng xử có lý trí với đức hạnh. Ông định nghĩa đức hạnh như là thói quen tiết độ-nói cách khác, đức hạnh là thói quen tránh xa các hình thức ứng xử thái quá. Cực đoan thì luôn sai trái, trong khi đức hạnh là thái độ trung hoà giữa hai thái cực.
Thí dụ: Can đảm là đức tính trung hoà giữa hai thái cực: hèn nhát và liều lĩnh. Ở một thái cự, kẻ hèn nhát thiều dũng khí. Ở thái cực còn lại, kẻ liều lĩnh vượt qua giới hạn an toàn của hành động có tính “đảm lược”, trở thành nạn nhân của sự dại dột và tính ương bướng nơi mình.
Người đức độ là người thực hiện các hành vi đức hạnh trong cuộc sống hàng ngày, không chỉ một vài tính huống mà thể hiện liên tục và thường xuyên như một thói quen trong đời-đức độ trở thành một nếp sống, một tính cách của anh ta. Ngược lại, tính cách “trái đạo đức” là hậu quả của sự vi phạm liên tục và thường xuyên các cung cách ứng xử sai trái.
Đức hạnh theo thuyết Aristotle
Đức hạnh bao gồm nhiều đức tính khác nhau; mỗi đức tính đại diện cho thái độ trung hoà giữa hai thái cực có liên quan. Aristotle đã liệt kê 12 đức tính quan trọng cùng với các dạng tính cách thái quá có liên quan với chúng. Đó là:
Hànhvi đúng đắn
Con người được sinh ra, theo Aristotle, không chỉ sống để tồn tại, mà để sống một cuộc đời tốt đẹp-tuân thủ những nguyên tắc do lý trí của chính mình tạo ra, tuân theo bản chất tối thượng của mình. Hành vi cá nhân cần được kiểm soát bởi các nguyên tắc đạo đức, sự tiết độ và né tránh mọi hình thức thái quá hay bất cập. Điều này đòi hỏi anh ta phải xác định hành vi đúng đắn cho từng tình huống cụ thể. Đó không phải là một công việc dễ dàng, bởi lẽ mực thước và đức độ có nghĩa là làm đúng việc, liên hệ đúng người, đúng nơi, đúng lúc, đúng mức, đúng cách và phục vụ cho mục đích đúng đắn. Thí dụ: Bố thí vốn là một công việc đơn giản. Nhưng xét về mặt đức hạnh, người bố thí phải ban phát đúng người, đúng thời điểm, đúng mục đích, với một lượng thích đáng, với cung cách đúng mực. Bố thí, xét trên phương diện đạo đức, là hành vi xuất phát từ thiện tâm.
Có nhiều trường phái tư tưởng khoái lạc; một số cổ xuý cho các khoái cảm nhất thời, số khác bàn đến cả lạc thú tinh thần. Trong số đó, trường phái vị kỷ (The Egoistic school) đề cao sự thoả nguyện tối đa cho bản thân, bất kể đến việc gây ra hậu quả đau khổ cho người khác. Tuy nhiên, những người theo trường phái vị lợi lý tưởng (the Ideal Utilitarians) chỉ chấp nhận những lạc thú mà mọi cá nhân đều được phép hưởng thụ, cho đó là mục tiêu khả dĩ mang đến lợi ích tối đa cho nhân loại.
1. Trường phái Cyrenaic
Trường phái khoái lạc này do Aritippus (435-356 trước CN) sáng lập, đề cao việc tận hưởng lạc thú nhất thời như là mục đích chính yếu trong đời. “Hãy ăn uống và vui thú, bởi vì rồi mai đây chúng ta sẽ chết.” Trường phái này quan niệm rằng nên tận hưởng mọi thú vui và khoái cảm hiện có; nếu không, cơ hội hưởng thụ những kinh nghiệm như thế sẽ trôi qua và không bao giờ trở lại. Những người theo trường phái này chẳng hề quan tâm đến cuộc sống tương lai, chỉ chú tâm đến những lạc thú ở thời điểm hiện tại. Họ cũng nhấn mạnh rằng, bởi vì lạc thú chỉ mang đến điều tốt đẹp, mỗi cá nhân nên tận dụng mọi cơ hội có thể để hưởng thụ chúng.
2.Trường phái của Epicurus
Epicurus(1) bất đồng với trường phái Cyrenaic về sự chấp nhận không phân biệt mọi lạc thú trong đời, bởi lẽ ông biết rằng có rất nhiều người thú vui tai hại và vì thế chúng cần được tránh xa. Đa số những người tuân thủ triết lý “ăn, uống và tận hưởng lạc thú, bởi vì rồi mai đây chúng ta sẽ chết” đều không chết ngay vào thời điểm “mai đây.” Họ vẫn tiếp tục sống để hứng chịu hậu quả tai hại của cuộc sống sa đoạ trong thú vui vô độ.
Theo Epicurus, người ta cần phải phân biệt và chọn lựa thú vui để hưởng thụ. Bởi lẽ các lạc thú không phải đều có giá trị và hậu quả như nhau, vì thế chúng không xứng đáng để được hưởng thụ như nhau. Nói cách khác, một số khoái cảm cần được loại trừ hoàn toàn , trong khi một số kinh nghiệm đau khổ lại cần được cam chịu vì lợi ích tương lai. Thí dụ: Một bệnh nhân cần phải uống thuốc đắng, hoặc trải qua một số cuộc phẫu thuật, nếu đó là điều cần thiết cho cuộc sống tương lai.
Khôn ngoan - Lẽ Chân - Thiện - Mỹ trong cuộc đời
Đối với Epicurus, khôn ngoan là điều tốt đẹp nhất trong cuộc sống. Khôn ngoan là tiêu chuẩn cần thiết để phân biệt những điều tốt đẹp và những thú vui đáng thụ hưởng. Hơn nữa, không ngoan cũng có thể thúc đẩy con người vượt qua khổ đau để có được một tương lai tốt đẹp hơn.
Người sa đà vào cuộc sống hưởng thụ khoái lạc vô độ có thể chai sạn dần, đánh mất khả năng cảm nhận lạc thú, thậm chí biến nó thành niềm đau. Ăn mãi một món ăn hợp khẩu vị nào đó sẽ sinh ra cảm giác ngán sợ, chưa kể đến những tác hại khác đối với sức khoẻ. Vì thế, tiết độ cần được xem là biểu hiện của sự khôn ngoan khi một cá nhân đối mặt với cám dỗ của lạc thú.
Đau khổ và cái chết
Epicurus đề cập nhiều đến sự né tránh đau khổ hơn là bàn đến vấn đề mưu cầu khoái lạc. Ông lập luận rằng bản thân cuộc sống, về cơ bản, là tốt đẹp mặc dù có sự tồn tại của Khổ đau, Tật Bệnh và Nỗi Sợ Hãi Cái Chết. Ông nhận định rằng sợ hãi, đặc biệt sợ hãi cái chết, là nguồn gốc chủ yếu của mọi bất hạnh; rằng chiến thắng được nỗi sợ hãi sẽ khiến cuộc sống an lạc và "đáng sống" hơn. Để thuyết phục mọi người gạt bỏ nỗi sợ hãi ấy, Epicurus đưa ra mẫu lập luận lô-gích dẫn đến "tình trạng bế tắc" như sau: "Chúng ta đang sống, không có cái chết để sợ. Khi chết đi : Nếu có cuộc sống sau cái chết, chúng ta không cần quan tâm đến cái chết mang tính hiện tượng ấy. Nếu không có cái chết, chúng ta sẽ không còn gì để sợ hãi hay lo lắng nữa.Vì thế sợ chết là điều thực sự không cần thiết trong cuộc đời."
5. Triết lý khắc kỷ EPICTETUS
Theo Epictetus(2)(50-120 sau CN), triết gia vĩ đại thuộc trường phái Khắc Kỷ (Stoicism), tri túc (contentment), có nghĩa là biết đủ, là một trong những yếu tố có giá trị nhất trong cuộc sống-một đời sống lặng lẽ, bình yên và điềm nhiên. Không có gì đáng để bận tâm phiền não; sự bình an tâm hồn là điều đáng quý trọng hơn cả. Niềm an lạc ấy được tìm thấy thông qua sự tự kiềm chế (self - control) hay tự chủ (self - mastery); đó là khả năng chế ngự lòng ham muốn và làm chủ bản thân, không để mình buông thả theo dục vọng.
Cho phép người khác khuấy động sự quân bình tâm hồn của bạn là tự đặt bạn vào tình trạng lệ thuộc vào họ, hay tồi tệ hơn thế - bởi lẽ, bạn đã để cho họ làm chủ tâm trí của mình, trong khi một kẻ nô lệ thực sự chỉ không thể tự chủ về mặt thể xác mà thôi. Bất cứ người nào có khả năng khiến bạn phải giận dữ đều trở thành chủ nhân của bạn chủ nhân của bạn. Thực tế, họ chỉ có thể khiến bạn phải nổi giận khi bạn cho phép tâm hồn mình bị họ khuấy động.
"Nếu có người định biến thể xác của bạn thành một món hàng, đặt nó dưới quyền áp chế của một ai đó, hẳn là bạn sẽ rất đau khổ. Nhưng nếu bạn tự đặt sự minh mẫn của mình dưới quyền khống chế của kẻ khác, khiến nó bị khuấy động và phiền não vì những lời chỉ trích, bạn không cảm thấy đau buồn và xấu hổ hay sao?"(1)
Các đối tượng mà bạn khao khát chính là những sợi dây phiền não đeo bám và trói buộc đời bạn. Để thoát khỏi vòng phiền não, bạn cần phải loại bỏ mọi mong cầu và bám víu, từ tham muốn của cải vật chất cho đến bám víu lấy cuộc sống.
Thí dụ: Nếu ai đó đánh cắp chiếc đồng hồ đeo tay quý giá của bạn, bạn sẽ thất vọng nếu bạn quá yêu thích và gắn bó với nó. Nhưng nếu chiếc đồng hồ bị mất cắp là chiếc rẻ tiền hay đã bị hỏng hóc, bạn sẽ không cảm thấy quá buồn phiền bởi vì nó không còn là đối tượng mà bạn thực sự ham thích và bán víu.
Bạn cũng có thể giữ được sự bình lặng tâm hồn khi hiểu thấu được bản chất thực sự của muôn vật trên đời. Thí dụ: Nếu vô tình đánh vỡ một món đồ trang sức quý giá, bạn hãy tự nhủ rằng: “Xét cho cùng, nó là món đồ được tạo ra từ vật chất vô thường, tan vỡ là kết cục tất yếu của nó.” Nếu nhận thức được rằng sữa là thức uống dễ ôi, bạn sẽ dễ dàng đón nhận sự kiện ấy khi nó xảy đến- chẳng có gợn sóng nào dậy lên trong lòng bạn.
Điều tương tự cũng áp dụng đúng cho trường hợp mất mát những người thân trong đời. Nếu đứa con yêu quý của bạn chết đi, Epictetus kết luận, hay tự nhắc nhở mình rằng đứa bé là một tạo vật vô thường, có máu thịt và nằm trong vòng sanh diệt. Nếu như thực sự nhận thức được tính chất giả tạm của cuộc đời bạn có thể tỉnh táo đón nhận mọi chuyện vui buồn trong kiếp nhân sinh.
Đức kham nhẫn
Triết lý khắc kỷ khuyên chúng ta chấp nhận những gì không thể đổi khác. Chúng ta học cách sống với nỗi thất vọng bất khả kháng, học cách chấp nhận mọi sự mất mát không thể văn hồi và học cách chịu đựng sao cho nỗi khổ đau vơi dần và phai nhoà đi. Hầu hết mọi khổ đau trên đời đều xuất phát từ lòng người, từ thái độ phủ nhận “phần đời” của chúng ta trong cuộc sống. Chình vì lẽ đó, khuyết tật thể chất là một gánh nặng khó lòng chịu đựng nối nếu chúng ta cho phép nó “đè bẹp” chính mình. Tuy nhiên, nếu chúng ta chấp nhận nó như một phần của cuộc sống, nó sẽ trở nên ít phiền toái hơn và “có thể chịu đựng được”. Thực tế, triết gia khắc kỷ vĩ đại Epicurus đã rút ra được bài học này từ kinh nghiệm sống của bản thân. Ông vốn là một người nô lệ, đối tượng thường bị lạm dụng và bạc đãi. Ông cũng là một kẻ tật nguyền.
Ý chí bất hoại
Triết lý khắc kỷ đề cao quan điểm cho rằng ý chí của con người phải được giữ trong tình trạng tự chủ và không thể khuất phục-nó phải độc lập, không bao giờ là đối tượng bị người khác kiểm soát. Không ai có quyền chi phối ý chí của kẻ khác, trừ phi người ấy cho phép-đúng ra, không bao giờ nên cho phép ý chí của mình bị chi phối, tốt hơn nên duy trì một tinh thần độc lập và không khoan nhượng. Socrates đã cho chúng ta một tấm gương điển hình về chủ thuyết này; xét đến lời khẳng định của nhà hiền triết ấy khi bình thảnh đón nhận cái chết do kẻ thù mang đến với mục đích bẻ gẫy ý chí của ông. “Anytus và Meletus có quyền xử tử tôi nhưng không thể phương hại được tôi”. Nói cách khác, các chính trị gia độc tài ấy không thể khuất phục được ý chí của hiền triết.
Bàn đến những thăng trầm trong đời, Epictetus khuyên rằng:“Người ta nên chuẩn bị điều gì cho những tình huống như thế? Cái gì là của tôi và cái gì không thuộc về tôi? Cái gì được dành cho tôi và cái gì không dành cho tôi? Nếu phải chết, liệu rằng tôi nên chết cùng với lời than phiền hay sao? Nếu tôi phải chịu cảnh lưu đày, liệu rằng ai có thể cấm tôi ra đi với nụ cười, niềm hoan hỉ và sự bằng lòng?”
“-Nhưng ta sẽ xiềng xích người! - Này, anh bạn đang nói điều gì thế? Xiềng xích tôi ư? Bạn có thể cùm chân tôi nhưng không thể trói buộc được ý chí tôi, ngay cả Thượng đế cũng không thể làm được điều đó. - Ta sẽ ném ngươi vào ngục! - À, anh bạn vẫn muốn nói đến thân xác khốn khổ của tôi đấy ư? - Ta sẽ chặt đầu ngươi!- Và trước đó, tôi sẽ nói với anh bạn rằng tôi có một vật không thể nào bị chặt đứt được."
Điều bí nhiệm về cái chết là “giống như một người buông bỏ cái thuộc về kẻ khác.” Khi đứng trước cái chết, người ta không nên cho rằng mình sắp mất đi mạng sống, mà đúng hơn là “mình sắp trả lại mạng sống.” Con người phải trả lại cho Thượng đế cái mà Ngài đã ban phát cho họ.
Những vấn đề của cuộc sống
Theo Epictetus, nên thành tâm đón nhận mọi khó khăn trắc trở trong cuộc sống. Chúng ta không bao giờ nên trốn tránh chúng, bởi đó là những bài tập rèn luyện tinh thần đáng được mong đợi. Hãy xem chúng là sàn tập để bạn có dịp đánh vật cùng Thượng đế, rồi khi thử thách đã qua, bạn trở thành một người vững vàng và tốt đẹp hơn. Giống như thân thể cần đến những bài tập vận động để giữ được sức khỏe và sự cường tráng, tinh thần cũng cần đến những bài tập rèn luyện nghị lưc. Vì thế, những khó khăn trắc trở trong đời phải được thành tâm đối mặt và đón nhận.
Quan niệm khắc kỷ về tình dục
Theo Epictetus, mọi hình thức hạm muốn nhục dục là không đáng mơ tưởng, bởi lẽ chúng chỉ khiến chúng ta trở thành những kẻ nô lệ cho dục vọng của chính mình. Tiết dục là điều đáng được lựa chọn hơn là phóng dục. Tình dục là yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất, khuấy động sự bình yên của tâm hồn. Tốt nhất chúng ta nên tránh mọi hình thức quan tâm đến tính dục. Xét cho cùng, thiết tưởng không ai nằm trong vòng tay tình nhân lại có thể giữ được tâm hồn bình lặng và tỉnh táo.
“Hôm nay tôi gặp được một người đẹp,” Epictetus dẫn giải, “tôi đã không tự nhủ rằng ước gì mình có thể gần gũi với cô ta, rằng được làm chồng của cô ta là một điều hạnh phúc-nên biết rằng điều đó sẽ dẫn thẳng đến ý tưởng “được ngoại tình với cô ta là một điều hạnh phúc!” Tôi cũng không mường tượng đến hình ảnh cô ta tìm đến bên tôi, cởi bỏ xiêm y và nằm xuống bên cạnh tôi... Tôi chỉ lắc đầu và tự nhủ: “Tốt lắm, Epictetus! Ngươi vẫn giữ được tỉnh táo.” Thậm chí, nếu như người phụ nữ ấy tỏ ý thích tôi, ra dấu mời gọi, đến bên tôi và thỏ thẻ những lời âu yếm bên tai tôi, tôi cũng sẽ bình thản và tự vui với niềm kiêu hãnh của mình. Vượt qua chính mình là dạng chiến thắng mà bất cứ người đàn ông nào cũng có quyền tự hào...”
6. Triết lý vị lợi của JEREMY BENTHAM
Triết lý vị lợi hiện đại được hình thành nhờ công của các nhà tư tưởng người Anh, đặc biệt là Jeremy Bentham(3)(1784-1832) và John Stuart Mill(4) (1806-1873), hai triết gia đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của bộ môn Đạo đức học. Giống như triết lý khoái lạc, Chủ nghĩa vị lợi (Utilitarianism) xác định lẽ Chân-Thiện-Mỹ dưới hình thức lạc thú, nhưng mang nặng tính nguyên tắc hơn. Về cơ bản, nó nhắm đến mục đích mang lại “những điều tốt đẹp nhất cho tuyệt đại đa số.” Trong tác phẩm “Giới thiệu các nguyên tắc luân lý và pháp chế” (An Introduction to the Principles of Morals and Legislation), Bentham giải thích lý tưởng ấy như sau: "Thực chất, nguyên tắc vị lợi được sử dụng để chuẩn y hoặc phủ nhận mọi loại hành vi, xét đến ảnh hưởng của chúng đối với lợi ích chung của cả cộng đồng- nói cách khác, xét đến khuynh hướng phát huy hay đối kháng với hạnh phúc và lợi ích của một cộng đồng.” Ông xác định "lợi ích" là những gì mang đến hoan lạc, hạnh phúc, tiện nghi, tiến bộ hoặc bất cứ hình thức nào ngăn ngừa được khổ đau, tội ác và bất hạnh(2)
Chủ nghĩa khoái lạc định lượng
Bentham là một người cổ xuý cho chủ nghĩa khoái lạc định lượng (Quantitative Hedonism). Ông tin rằng chỉ có một dạng hoan lạc, trong đó các khoái cảm khác nhau về số lượng, chẳng hạn như số lượng, thời lượng và cường độ, v.v... Các khoái cảm không khác nhau về chất. Thực tế, về cơ bản, không có sự phân biệt rõ ràng giữa thú vui vật chất và thú vui tinh thần. Mọi lạc thú đều phục vụ cho thể xác và cảm giác.
Lẽ chí thiện tận mỹ trong đời
Vốn là một triết gia duy vật, Bentham phủ nhận các thú vui tâm linh, xem chúng như là những lạc thú giả tạo. Ông khẳng định rằng thú vui thể xác là điều tốt đẹp nhất có thể đạt được trong cuộc sống, rằng vì lý do đó, một cá nhân bị tước đoạt mọi thú vui thể xác sẽ thấy đời không đáng sống. Mục tiêu chủ yếu, hay có lẽ là duy nhất, mà con người cần hướng đến là mưu cầu lạc thú.
Phân lượng hoan lạc
E rằng mọi người không biết cách chọn lựa những lạc thú có giá trị nhất trong phạm vi có thể, Bentham đã sáng tạo ra một công cụ đo lường khoái lạc. Nó được gọi là "Phân lượng hoan lạc" (Hedonist Caculus), bao gồm 7 tiêu chuẩn có mục đích giản tiện hoá công việc lựa chọn những lạc thú khả dĩ. Khi một cá nhân đứng trước tình huống phải chọn một trong hai thú vui nào đó, anh ta có thể sử dụng 7 tiêu chuẩn dưới đây như nền tảng cơ sở để đi đến quyết định.
2. Thời lượng: Thời gian diễn ra lạc thú.
3. Xác định hay bất định: Mức độ đảm bảo rằng một kinh nghiệm đặc biệt nào đó sẽ mang đến khoái cảm trong quá trình tham gia lạc thú.
4. Sự gần gũi hay xa cách: Mức độ gần gũi, chặt chẽ của lạc thú xét về mặt không gian và thời gian.
5. Sự phong phú : Khả năng tiếp cận với các thú vui phụ khác.
6. Độ thuần thục: Mức độ loại trừ các yéu tố gây khó chịu và đau đớn.
7. Phạm vi : Khả năng chia sẻ niềm hoan lạc với người khác.
Bốn hình thức trừng phạt
Để đảm bảo rằng mọi người không vượt quá giới hạn quyền lợi cá nhân trong quá trình mưu cầu lạc thú riêng, Bentham đã đề xuất 4 hình thức trừng phạt (hay ngăn ngừa) đối với các hành vi trái đạo đức. Chúng có thể được minh hoạ với các thí dụ sau đây:
2. Hình phạt pháp lý: Nếu một cá nhân tìm kiếm thú vui bất hợp pháp, anh ta có thể bị phạt tù hay nhận lãnh các án phạt khác.
3. Hình phạt công đạo: Nếu một cá nhận tìm đến những thú vui bất công, anh ta có thể bị khai trừ khỏi xã hội cộng đồng hoặc bị công luận chỉ trích.
4. Hình phạt tôn giáo: Nếu một cá nhân buông thả mình trong những lạc thú cấm kỵ và vô luân, Thượng đế sẽ trừng phạt anh ta (ngay trong kiếp này hay ở kiếp khác.)
7. Triết lý vị lợi của JOHN STUART MILL
Mục đích ban đầu của J. S. Mill là bảo vệ và gạn lọc thuyết vị lợi của Jeremy Bentham, nhưng cuối cùng ông nhận thức ra rằng quan điểm của mình đối lập với học thuyết ấy. Mill đã phát triển một thái độ phê phán tiền đề cơ bản của Bentham rằng lạc thú thể xác (hay khoái cảm) là lẽ Chân-Thiện-Mỹ trong đời. Nếu ý tưởng ấy của Bentham là đúng, Mill nhận định, liệu chúng ta có nên đặt vấn đề rằng tạo vật đang chìm đắm trong dục lạc là một con người hay một con lợn? Thực ra, nếu khoái cảm là điều chí thiện tận mỹ trong cuộc sống, vì sao một con người đang chịu khổ đau và thất vọng lại có thể được xem là "thượng đẳng" hơn một con lợn đang thoả mãn trong dục lạc nhầy nhụa?
Mill đi đến kết rằng hoan lạc phải có tính phân biệt về chất; vì thế, chỉ một lượng nhỏ lạc thú của con người cũng có giá trị hơn một lượng lớn lạc thú của một con lợn. Triết lý của Mill, tương phản với thuyết “hoan lạc định tính." (Qualitative Hedonism)
Tiêu chuẩn luân lý
Như đã trình bày ở phần trước, Bentham đề xuất 7 tiêu chuẩn phân lượng hoan lạc để làm cơ sở xác định thú vui đúng đắn. Về phần mình, Mill đã chọn một chuẩn mực khác, tạm gọi là "ý kiến của chuyên gia hoan lạc." Điều này có nghĩa là, nếu cần chọn lựa một trong hai lạc thú khả dĩ, quyết định đúng đắn sẽ thuộc về người đã từng có kinh nghiệm về cả hai lạc thú ấy. Trong tình huống hai người bất đồng với nhau trong quá trình đi đến một quyết định chọn lựa lạc thú, lời phán xét cuối cùng phải thuộc về người khôn ngoan và từng trải hơn, bởi vì anh ta có khả năng đưa ra một quyết định chính xác và đúng đắn hơn. Mill đã trình bày quan điểm của mình như sau:
"Nếu được hỏi về ý nghĩa của sự khác biệt về chất giữa các niềm hoan lạc, rằng cái gì đã khiến mọi thú vui này có giá trị hơn một một vui khác, xét về mặt tính chất chứ không bàn đến phạm vi phân lượng của chúng, tôi cho rằng chỉ có một câu trả lời khả dĩ chấp nhận được.
"Xét đến sự chọn lựa giữa hai thú vui. Nếu hầu hết những ai đã từng hưởng thụ cả hai thú vui ấy quyết định chọn một không kể đến mọi định kiến đạo đức, thú vui ấy phải là lạc thú đáng được chọn hơn. Nếu mộpt trong hai thú vui ấy được họ đánh giá cao hơn cái còn lại - mặc dù biết rằng nó bao hàm nhiều điều bất toại hơn, nhưng họ vẫn không sẵn sàng đánh đổi nó với bất kỳ một lượng nào của thú vui còn lại - chúng ta có thể an tâm mà kết luận rằng thú vui được chọn là “có giá trị vượt ra khỏi khuôn khổ phân lượng” và “có chất lượng ưu việt hơn" so với thú vui còn lại”.
“Qua đó, chúng ta sẽ nhận ra một sự kiện không thể chất vấn rằng họ- những người từng trải qua, hưởng thụ và có khả năng đánh giá cả hai thú vui ấy một cách công bằng, đã đưa ra một quyết định chọn lựa đáng trân trọng về thái độ đón nhận những gì tác động “nhân tính”, phần phẩm chất cao nhã bên trong tâm hồn mình. Rất ít người can tâm hạ thấp phẩm giá của mình xuống hàng thú vật chỉ để được thoả mãn những khoái lạc hạ đẳng. Không có người thông minh nào chịu can tâm làm người ngu dại, chẳng có kẻ học thức nào hài lòng với sự dốt nát, không một người có lương tri nào chấp nhận được sự ích kỷ và đê tiện. Họ không bao giờ cam tâm hạ thấp phẩm giá của mình, cho dù được thuyết phục rằng những kẻ ngu dại, dốt nát hay ti tiện có cuộc sống đầy đủ và thoả mãn hơn cuộc sống của họ. Để hạnh phúc, người cao nhã đòi hỏi những nhu cầu cao hơn, họ cũng phải có khả năng chịu đựng cao hơn. Tuy nhiên, bất chấp những đòi hỏi ấy, hẳn là anh ta chẳng bao giờ ao ước muốn chìm đắm trong một đời sống mà anh ta cho rằng nhơ nhuốc và hạ cấp... Thà là một con người không thoả nguyện còn hơn là một con lợn khoái lạc; thà là một Socrates thất cơ lỡ vận hơn là một kẻ tiểu nhân đắc chí. Và nếu như kẻ tiểu nhân ấy, hay con lợn ấy, bất đồng với ý kiến nói trên, đó bởi vì họ chỉ biết đến mặt phải của vấn đề hoan lạc. Những người biết cả hai mặt của vấn đề ấy mới có được một cái nhìn so sánh chính xác....”(3)
Mọi người đều bình đẳng
Mill đưa vào học thuyết của mình quan điểm dân chủ của Bentham, rằng hạnh phúc và những điều tốt đẹp của mỗi cá nhân đều có giá trị như nhau, rằng mỗi người đều bình đẳng và phải được đối xử công bằng. Hạnh phúc của kẻ bần cùng cũng quan trọng như hạnh phúc của một ông hoàng. Mọi người trên thế giới đều bình đẳng.
8. Thuyết học trực giác của IMMANUEL KANT
Immanuel Kant(5)(1724-1804) xây dựng một học thuyết đạo đức dựa trên nền tảng "thiện chí", ý chí nguyện tôn trọng các nguyên tắc luận lý. Vì thế, học thuyết ấy còn được gọi bằng thuật ngữ "Đạo nghĩa học" (Deontological) - đạo lý về bổn phận. "Bổn phận là nghĩa vụ hành động xuất phát từ sự tôn trọng các quy tắc (đạo đức)"(4) Toàn bộ vấn đề đạo đức đều bao hàm trong lãnh vực "thiện ý có lý tính" (rational good will). Trong tác phẩm "Siêu hình tính của luân lý", Kant nhận định: "Không có gì ở toàn bộ thế giới này, hay ngay cả bên ngoài thế giới này, có thể được xem là tốt đẹp hoàn toàn, ngoại trừ thiện ý". Nơi nào không có ý nguyện tốt lành, không có sự tự quyết, tất không có sự tồn tại của môi trường đạo đức.
Đạo đức học theo thuyết trực giác
Thuyết trực giác (Intuitionism) là luận thuyết cho rằng đạo lý hoàn toàn tồn tại bên trong ý thức cá nhân, rằng cá giá trị đạo đức nẩy sinh từ ý nguyện và mục đích của mỗi hành vi (không nên căn cứ theo hình thái biểu hiện bên ngoài, vốn là hệ quả của một hành vi). Kant cho rằng điều tốt đẹp tồn tại ngay trong ý nguyện, bất kể kết quả của các hành vi biểu lộ ra bên ngoài. Thực tế, mọi hành động đều trung tính về mặt đạo đức (morally neutral). Ý nguyện, bản ngã đạo đức của con người, thể hiện sự lựa chọn của học trước những yêu cầu thuộc về các quy tắc luân lý. Lẽ phải có bản chất là đúng và phải được phát triển thành ý nguyện, không cần xét đến hệ quả - "Hãy để cho lẽ phải được thực hiện, cho dù thiên đường có sụp đổ”. Khi các quy tắc đạo đức yêu cầu chúng ta phải có ý nguyện thực hiện những đòi hỏi ấy, bất kể mọi hệ quả về sau.
Mệnh lệnh vô điều kiện
Tiêu chuẩn đạo đức của Kant (công cụ kiểm chứng tính đạo đức của một hành vi) là "Mệnh lệnh vô điều kiện" (Cantegorical Imperative). "Hãy hành động như thể nguyên tắc hành động của bạn, thông qua ý nguyện, chính là quy luật tự nhiên của toàn thể vũ trụ". Để xác định một hành vi "ý nguyện" là đạo đức, người ta phải dựa theo tiêu chuẩn này. Vì thế, khi dự định bỏ qua một lời hứa, người ta cần phải tự vấn chính mình rằng : “Liệu tôi có thực sự ước muốn rằng mọi người đều thất hứa mỗi khi được lựa chọn?” Nếu câu trả lời có tính phủ định, hành vi dự kiến là trái đạo đức."
Mệnh lệnh vô điều kiện là một yêu cầu đạo đức tối thượng, luôn đúng trong mọi trường hợp, mọi tình huống, mọi nơi mọi lúc. Mệnh lệnh (The Imperative) xuất phát từ lương tâm, là yêu cầu vô điều kiện (Categorical), không có bất kỳ giới hạn hay khuôn khổ nào cả. Nếu thất hứa là hành động đúng trong một trường hợp nào đó, đúng với một cá nhân nào đó, nó phải đúng trong mọi trường hợp, đúng với tất cả mọi người. Điều gì sai trái đối với một người tất phải sai trái đối với tất cả mọi người. Qua đó, chúng ta tìm thấy nơi mệnh lệnh vô điều kiện một quan niệm triết lý thuộc về quy tắc vàng (the Golden Rule)trong nghệ thuật ứng xử: "Hãy dành cho người khác những gì bạn mong muốn họ dành cho bạn."
Kant lý giải và chứng minh quan điểm của mình như sau: “.... Liệu rằng tôi có thể, thí dụ, dưới áp lực của tình thế, đưa ra một lời hứa mà không hề có ý định thực hiện? Không nhằm để xác định tính không ngoan của hành vi hứa hão, câu hỏi ấy được đưa ra nhằm tìm hiểu đúng đắn về mặt đạo đức củ hành vi ấy. Để có thể trả lời câu hỏi ấy một cách ngắn gọn và rốt ráo, cách tốt nhất là tự vấn bản thận: “Liệu rằng có thể thoả mãn hay không, khi hành vi hứa hão với mục đích thoát ra khỏi tình thế bối rối trở thành quy luật ứng xử chung của toàn bộ của toàn bộ cộng đồng, áp dụng cho tất cả mọi người kể cả chính mình?”
“Ngay lập tức, tôi nhận ra rằng trong khi tôi muốn có quyền được nói dối, tôi cũng không muốn dối trá trở thành một quy luật ứng xử chung. Nếu dối trá trở thành quy luật phổ biến, nói cho cùng, trên đời sẽ không tồn tại cái được gọi là “lời hứa” nữa. Tôi có thể phỉnh phờ về cái điều tôi dự định làm trong tương lai, nhưng không ai tin tưởng ở tôi cả. Hoặc giả, nếu như có một người nào đó tin ở tôi; ngay tại thời điểm ấy, anh ta cũng có thể đang phỉnh phờ lại tôi. Chính vì thế, cung cách ứng xử sai trái ấy được xem là tự vọng, ngay khi nó được chấp nhận như một quy luật phổ biến.”
Sự độc lập của ý nguyện
Theo Kant, luân lý chỉ khả thi với sự tồn tại của “thiện chí có lý tính” của con người, một sự tự do lựa chọn không khuất phục bởi điều gì ngoài chính nó. Ý nguyện độc lập chỉ tuân theo mệnh lệnh của chính nó. Không ai có thể ước muốn cái điều anh ta không chọn lựa. Mặc dù người ta có thể ép buộc trẻ con thực hiện một hành vi nào đó, họ không thể nào cưỡng bách đứa trẻ “ước muốn” thực hiện hành vi ấy - đó là ý nguyện, là quyền tự quyết tối thượng của một con người. Cách duy nhất để khiến người khác chia sẻ ý nguyện với mình là thuyết phục họ; nếu thuyết phục thất bại, không còn phương cách khả dĩ nào khác nữa.
Phẩm giá của con người
Mọi vật, ngoại trừ con người, theo Kant, đều có giá trị trao đổi, lại giá trị xác định tính chất thương mại của chúng; ngay cả đồ vật mantg dấu ấn kỷ niệm và tình cảm cũng có thể được mua bán với một cái giá nào đó. Tuy nhiên, nhân phẩm của con người, “giá trị chân thực và vô hạn” (infinite intrinsic value) của mỗi cá nhân, là hoàn toàn vô giá. Với lý lẽ cho rằng “mỗi người đều có cái giá của họ”, Kant sẽ đáp lại rằng bất cứ ai tự bám mình sẽ bị tước mất quyền làm người chính đáng của họ, bởi lẽ nhân phẩm vượt trên mọi giá trị và mọi hạn định.
Cá nhân - Mục đích tối hậu
Theo quan điểm của Kant, bởi vì chỉ con người mới có ý nguyện độc lập (chỉ có họ thực thi các quy tắc luân lý và thể hiện các giá trị đạo đức), bởi vì bản thân họ chính là mục đích tối hậu. Điều này có ý nghĩa là con người phải được đối xử như mục đích, chứ không bao giờ chỉ là phương tiện trong cuộc đời.
Thực tế, mọi cá nhân đều có thể được dùng vào mục đích nào đó, vì thế họ có một giá trị tiện ích. Tuy nhiên, bởi lẽ họ cũng là những tạo vật có giá trị chân thực và vô hạn; vì thế nếu đến thời điểm họ không còn giá trị tiện ích nữa, họ vẫn phải được tôn trọng và giúp đỡ. Xét cho cùng, với nhân phẩm vượt trên mọi giá trị và hạn định, con người chính là mục đích tối thượng của cuộc đợi.
Tính ký sinh của sai trái
Kant chỉ ra rằng Cái Xấu hiện hữu như một thứ ký sinh; rằng nó như một dạng nấm mốc không có khả năng tự phát triển mà chỉ sống bám víu trên cánh đồng thiện tâm. Kẻ dối trá chí có thể dở trò lừa lọc khi hầu hết mọi ngươì, trong những tình huống thông thường, luôn đối xử trung thực. Nếu đa số đều trở thành những kẻ điêu ngoa, chẳng còn ai tin vào người khác nữa. Vì thế, ngay cả khi có được chiến thắng tạm thời, Cái Xấu cũng phải nương dựa vào Cái Tốt. Nếu Cái Thiện bị tiêu diệt, Cái ác cũng tự vong.
Thí dụ: Những thành viên trong một băng cướp cũng phải cần đến "chữ Tín" (một đức tính tốt) để có thể cộng tác với nhau trong các hoạt động phi pháp (hành vi sai trái). Tuy nhiên, máu hám lợi và đồng tiền bất chính sẽ che lấp lòng trung tính, dẫn đến sự phân hoá và cuối cùng là những cuộc xô xát nội bộ như một kết cục không thể tránh khỏi.
Thế giới bản thiện
Kant cho rằng thế giới vốn được hình thành trên cơ sở các quy luật đạo đức. Vì thế, nếu theo đuổi một cuộc sống trái đạo đức, cá nhân sẽ phát hiện ra rằng cuối cùng các quy luật ấy cuốn phăng mọi nỗ lực đi ngược lại với dòng chảy của cuộc đời. Một xã hội, tổ chức hay doanh nghiệp nào đó được vận hành trên nền tảng phi đạo đức chẳng bao giờ có được sự thành công lâu bền. Một thương gia chỉ quan tâm đến mục đích tạo ra lợi nhuận, bất chấp mọi phương tiện và thủ đoạn, sẽ nhận ra rằng lừa đảo và gian trá chỉ mang đến sự bất tính nhiệm và tai hoạ về mặt luật pháp. Giới doanh nhân và các nhà đầu từ thời hiện đại đánh giá tiếng tăm và uy tín như một thứ tài sản thiết yếu; họ luôn đón chào và mong đợi khách hàng tìm đến với sản phẩm của mình trên tinh thần thiện ý.
9. Triết lý yếm thế của ARTHUR SHOPENHAUER
Triết gia Đức Arthur Schopenhauer(6) (1788-1860) tin rằng Cái Xấu có ưu thế hơn, rằng thế giới, về cơ bản, gắn liền với Cái Xấu. Hạnh phúc chỉ lướt qua, điểm xuyến những khoảng khắc êm đẹp ngắn ngủi trong cuộc sống đầy đau khổ và bất hạnh. Như trong những truyện kể dân gian, sau biết bao thăng trầm tiếp nối, câu chuyện thường kết thúc khi anh hùng và mỹ nhân bước vào đời sống lứa đôi hạnh phúc. Nếu như câu chuyện tiếp tục, những nỗi bất hạnh tất yếu trong đời cuối cùng sẽ chứng minh cho quan điểm của Schopenhauer, rằng "cuộc sống là một thứ sai lầm", rằng "sinh ra ở đời đã là một cái tội".
Chủ nghĩa bi quan
Triết lý yếm thế (Pessimism) của Schopenhauer dựa trên nhận định cho rằng thế giới là một động lực mù quáng, phi lý và lạc lối, bởi vì không có Thượng đế nào dẫn đường cho nó. Thực tại là động lực mù quáng, là ý chí mạnh mẽ được thể hiện dưới các hình thức bản năng, động cơ và dục vọng vô độ, không bao giờ thoả mãn. Thoả mãn một khát khao chỉ khiến con người tìm đến những khát khao mới đòi hỏi phải được thoả mãn. Dục vọng thì khôn cùng mà cơ hội thoả mãn thì có hạn. Trong cuộc sống thực tế, hầu hết mọi người đều nếm trải thất vọng và, trong những giây phút thành công hiếm hoi, sự buồn chấn đến tận cùng.
Theo cách nói của Schopenhauer: "Mọi ý nguyện đều xuất phát từ ý muốn, ý muốn nẩy sinh từ sự thiếu thốn và đó cũng là nguồn gốc đau khổ. Sự thoả mãn một ý nguyện chấm dứt ý nguyện ấy nhưng vẫn còn những ý nguyện khác cần được giải quyết. Hơn nữa, dục vọng vốn khôn cùng, nhu cầu lại vô hạn, trong khi sự thoả nguyện thì ngắn ngủi và hiếm hoi. Thậm chí, chính ước vọng thoả nguyện cuối cùng cũng chỉ là ảo tưởng. Mỗi ý nguyện được thoả mãn lập tức mở đường cho một ý nguyện mới - cả hai đều là ảo vọng... Không có sự thành tựu nỗi khao khát nào có thể mang đến sự thoả nguyện viên mãn. Tất cả chỉ là sự hài lòng nhất thời, cạn cợt và tạm bợ - giống như của bố thí cho kẻ hành khất vậy, nó có thể giúp hắn sống qua hôm nay và kéo dài cảnh cơ cực của hắn cho đến ngày mai..."(5)
Con đường cứu rỗi
Tuyệt dục, theo Schopenhauer, là cách duy nhất thoát ly khỏi sự thống khổ của thế giới này. Từ bỏ khát vọng sống, những không chối bỏ cuộc sống. Tiêu diệt ý chí, dục vọng và bản năng; tự hài lòng với tình trạng không tồn tại (nothingness), với cõi Vô Dục Niết Bàn (Nirvana-absence of deisre). Ai đó có thể nghĩ rằng trạng thái suy tư theo triết lý của Platon (độc lập với không gian và thời gian, thoát khỏi sự ràng buộc của ý chí và bản năng) cũng mang đến an lạc; tuy nhiên, xét đến cùng, đó chưa phải là con đường giải thoát rốt ráo.
Đạo lý của lòng cảm thống
Schopenhauer ghi nhận sự cần thiết của Từ Tâm. Xét rằng cuộc sống của mỗi người đều thống khổ, rằng mỗi cá nhân đều có nỗi bất hạnh riêng, chúng ta không nên lên án những kẻ phạm phải hành vi sai trái mà nên thương hại họ. Tất cả chúng ta đều "ở trên cùng một con thuyền không hề mong đợi", đều bất lực trước tính thế khốn khổ của mình. Vì thế, trách cứ và hành hạ lẫn nhau từ tâm và thiện chí giúp đỡ. "Chỉ có từ tâm mới chính là nền tảng thực sự của mọi hình thức công lý tự nguyện (voluntary justice) và bác ái; Chỉ có hành động xuất phát từ nền tảng ấy mới có giá trị đạo đức, mọi hành vi luân lý xuất phát. Sự thật các động cơ khác đều không có giá trị. Khi tôi cảm thấy xót thương chó sự thống khô của người nào đó, nỗi đau của anh ta len thẳng vào lòng tôi, không hẳn là cùng một mức độ nhưng tôi cảm nhận đúng nỗi đau ấy nơi bản thân - nếu không, đó chỉ là một hình thức cảm nhận vị kỷ. Với lòng xót thương, sự khác biệt giữa bản thân tôi và anh ta không còn là hố ngăn cách không thể vượt qua được".(6)
10. Triết lý tự nhiên của FRIENDRICH NIETZSCHE
Friendrich Nietzche(7)(1844-1900) tin rằng đạo đức phổ biến đương thời là thể nghịch đảo của đạo đức chân thực, rằng những gì thực sự là đạo đức phải phù hợp và không bao giờ mâu thuẫn với bản chất của con người.
Ông có quan điểm tương đồng với Schopenhauer về bản chất của con người bao gồm cả bản năng sống, rằng "sống là thực hiện toàn mãn những bản năng của con người", không phải là áp chế chúng như các nền văn hóa phổ biến trong thời hiện đại thường đòi hỏi. Những Nietzche bất đồng sâu sắc với triết lý bi quan của Schopenhauer. Ông xác quyết rằng vẫn còn khả năng hoàn thiện nếu chúng ta dành trọng ý nghĩa cuộc sống cho các bản năng, thay vì đè nên chúng.
Đạo đức nô lệ đối kháng đạo đức chủ nhân
Nietzche chỉ ra rằng có hai hệ thống đạo đức tồn tại suốt dòng lịch sử nhân loại - đạo đức của giới nô lệ và đạo đức của giới chủ nhân - mỗi hệ thống có quy tắc luân lý riêng của nó.
Đạo đức nô lệ của kẻ yếu đòi hỏi họ chấp nhận phục tùng chủ nhân. Đạo đức của giới chủ bao gồm đạo lý của tầng lớp quý tộc (giới cầm quyền và qúy tộc), những người tạo thành "chủng tộc Aryan(8) ưu thắng", cống hiến vào sự nghiệp chiến tranh, thám hiểm và chinh phục. Đối với họ, hoà bình chỉ đến sau khi chiến thắng được đối thủ của họ, buộc đối thủ phải thừa nhận quy luật "kẻ mạnh có quyền thống trị kẻ yếu"
Nguyên tắc "sức mạnh làm nên lẽ phải", theo Nietzche, là quy luật của tự nhiên- tương phản với khuynh hướng đạo lý của nền văn minh Cơ Đốc và Do Thái, vốn cổ xuý cho Tính Khiêm Cung và Từ Tâm. Nền văn hóa theo truyền thống Cơ Đốc và Do Thái (Judeo - Christian culture), Nietzche nhấn mạnh, chỉ thích hợp cho giới nô lệ. Người Do Thái vốn bị lệ thuộc trong gần trọn lịch sử của dân tộc họ; vì thế họ phát triển nên một hệ thống luân lý phù hợp với phần yếu đuối của nòi giống người. Đạo lý của họ là kiềm chế tình cảm, một sản phẩm của sự phẫn nộ bị cầm tù, một sự thù địch dồn nén luôn ngấm ngầm tìm kiếm những phương cách trả đũa kẻ thống trị và chủ nhân của họ. Theo Nietzche, nô lệ là những người không hề dám bộc lộ sự phản kháng, chỉ tìm kiếm những hình thức trả đũa lén lút.
Nietzche lên án giới chức sắc tôn giáo Cơ Đốc và Do Thái sử dụng tôn giáo như một phương tiện để làm đảo lộn và hạ thấp các giá trị đạo đức tự nhiên, biền nòi giống chủ nhân trở thành nô lệ và nòi giống nô lệ trở thành chủ nhân. Theo ông, những người nô lệ đã trở thành giáo sĩ đại diện cho Thượng đế toàn năng, đe doạ giới chủ nhân bằng sự Trừng phạt Thánh thần để buộc họ phải chấp nhận vai trò khiêm hạ, quỵ luỵ của những người phục vụ trung thành cho nòi giống nô lệ. Chính vì thế, Nietzche kêu gọi xem xét lại mọi giá trị, bác bỏ các giá trị đạo đức theo tinh thần Cơ Đốc và Do Thái. (Cần ghi nhận mối quan hệ gần gũi giữa triết lý này với thuyết phân biệt chủng tộc của Adolp Hitler, mặc dù ý tưởng về chế độ quý tộc của Nietzche được tìm thấy ở rất nhiều quốc gia, không chỉ ở nước Đức ).
Siêu nhân
Siêu nhân, theo quan niệm của Nietzche, là dạng "người khổng lồ" về mặt đạo đức (moral giant) được phú cho một thể chất siêu việt. Siêu nhân là thành viên của nòi giống tương lai. Chưa từng có ai đạt đến phẩm chất cao quý của nòi giống ấy, bởi những con người hoàn hảo nhất của nhân loại đều hoá ra nhỏ bé và tật nguyền khi đứng trước siêu nhân. Quan niệm của Nietzche đòi hỏi siêu nhân phải là một tạo vật có quyền năng và sự uy nghiêm của Caesar(9), kết hợp với đạo đức cao vời vợi của Chúa Jesus.
Nếu xem con người là động vật thượng đẳng so với loài khỉ, siêu nhân là giống thượng đẳng so với loài người. Là một tạo vật siêu việt về mặt đạo đức, siêu nhân chẳng bao giờ cần đến lòng vị tha, bởi lẽ "anh ta" sẽ lập tức tha thứ hoặc quên đi ngay hành động xúc phạm đến mình; thậm chí anh ta thực sự tha thứ trước khi bị xúc phạm. Về mặt tinh thần, anh ta giống như Chúa Jesus trên thập tự giá, cầu xin Thượng đế tha thứ cho kẻ thù của mình vậy. Nietzche khẳng định rằng Đấng Jesus là mẫu mực lý tưởng cho người Cơ Đốc, rằng bởi vì họ không noi theo tấm gương của Người,cho nên "chỉ có một tín đồ Cơ Đốc mà thôi và người ấy đã chết trên thánh giá".(7)
Zarathustra đã nói như thế
Mặc dù là người vô thần, Nietzche tỏ ra rất sâu sắc khi phê phán những kẻ phụng thờ Thượng đế trên danh nghĩa, huỷ báng Ngài trong cung cách hành xử. Ông đã mượn lời của Zarathustra, một nhà tiên tri xứ Ba Tư, khi nhân vật hư cấu này chế giễu một vị thánh già nua ẩn cư chốn sơn lâm, để nói lên một sự thật phũ phàng: "Có thể như thế được chăng? Vị thánh già nua sống trong rừng thẳng ấy vẫn còn chưa biết răng Thượng đế đã chết rồi hay sao?"(8)Nói cách khác, nếu xét đến hành trạng của các tính đồ Cơ Đốc và Do Thái, Thượng đế đã chết; nếu không, những kẻ thời phụng Ngài nào dám hành xử sai trái một cách tàn tệ đến thế!
Sự kiện Chúa chết đi vì tình yêu thương con người, Nietzche nhận định, chứng tỏ rằng tình yêu mang đến khổ đau và bất hạnh. Tình yêu khiến cho mỗi cá nhân dễ bị tổn thương trước những ảnh hưởng xấu xa và môi trường thù địch. Thực tế, bất hạnh xảy ra đến với người mình yêu có thể khiến chúng ta khổ não hơn so với khi tự mình gánh chịu nỗi bất hạnh ấy. Vì thế, mỗi cá nhân cần tự mình cân nhắc và nhận thức về những mối dây tình cảm ràng buộc trong đời; tuy nhiên, cũng phải luôn nhớ rằng Chúa đã chết vì tình yêu thương con người, cũng bởi vì thái độ bất trị của con người.
11. Triết lý trung thành của JOSIAH ROYCE
Josia Royce (1855-1916), triết gia Hoa Kỳ, định nghĩa đạo lý trung thành (Philosophy of loyalty) của mình là "sự tận hiến, về mặt ý chí cũng như trong hành động thực tế, của cá nhân dành cho một sự nghiệp nào đó."(9)Trung thành là lẽ phải tối thượng, bao hàm mọi đức hạnh trong đời. Đành rằng đôi khi lòng trung thành có thể dẫn đến xung đột nội tâm, những ngay cả trong tình huống ấy, quyết định cần thiết vẫn là "trung thành với đức trung thành".
Trung thành - Lẽ phải tối thượng
Đức trung thành là lẽ chí thiện tận mỹ trong đời (the summum bonum), bất kể nó được dành cho sự nghiệp hay lý tưởng gì. Sự nghiệp có thể đúng đắn hoặc xấu xa, đức trung thành chẳng bao giờ sai trái. Vì thế, huỷ hoại tinh thần cao đẹp của đức trung thành là điều hoàn toàn lỗi lầm, cho dù bản thân người có lòng trung thành đang phục vụ cho một lý tưởng sai lầm.
Nếu lòng trung thành được dành cho sự nghiệp không chính đáng, người ta cần tìm cáh hướng nó vào mục đích xứng đáng hơn. Nói cho cùng, tinh thần của đức trung thành là điều cao đẹp, chọn đúng lý tưởng để theo đuổi lại là vấn đề thuộc về trí tuệ và nhận thức.
Trung thành với đức trung thành
Khi lòng trung thành dẫn đến xung đột nội tâm, cá nhân nhất thiết phải "trung thành với đức trung thành". Nói cách khác, anh ta không nên huỷ hoại tinh thần cao đẹp của đức trung thành, hãy tôn vinh giá trị của nó. Đối với người trung thành với một lý tưởng xấu xa, chúng ta không bao giờ nên phỉ báng hay đả phá tinh thần tận hiến của họ; tốt hơn nên tìm cách hướng dẫn, tạo điều kiện giúp họ nhận thức ra vấn đề và phát huy đức trung thành trong sự nghiệp tốt đẹp hơn. Mỗi cá nhân cần phải giữ gìn giá trị của lòng trung thành; hành vi nào gây tổn hại đến giá trị này đều được xem là phản bội lại đức trung thành cao cả.
12. Chủ nghĩa hiện thực đạo đức của GEORGE EDWARD MOORE
George Edward Moore (1873-1958) phát triển chủ nghĩa vị lợi lý tưởng (Ideal Utilitarianism) thành một triết lý độc lập với thuyết trực giác (Intuitionism). Thuyết trực giác khẳng định rằng mọi quy tắc đạo đức đều tồn tại bên trong mỗi cá nhân, thuộc về lãnh vực ý chí, chủ đích hay thiên bẩm. Ngược lại, chủ nghĩa vị lợi lý tưởng trình bày quan điểm đạo đức dưới hình thức các kết quả và sự kiện rõ ràng của hành động. Về phần mình, Moore xác định bản chất đúng sai của hành vi dựa trên cơ sở hiệu quả do nó gây ra, bất kể ý định của người thực hiện. "Lẽ đúng sai của một hành vi luôn tuỳ thuộc vào kết quả toàn cục của nó."(10) Nếu hành vi ấy mang đến điều tốt đẹp cho cuộc sống trên thế giới này, nó là một hành động đúng đắn; nếu không, nó là một hành động sai trái.
Hành vi đúng đắn không chỉ là hành vi xuất phát từ ý định tốt lành, hay thậm chí được dự kiến là đúng đắn nhất trong điều kiện cho phép, nó phải là hành động mang đến ích lợi thực tế. Lợi ích thực tế không phải là dạng kết quả tiên đoán dựa trên cơ sở đánh giá theo lẽ đúng-sai; nó phải là kết quả có giá trị cụ thể. Khó khăn chủ yếu là cá nhân khó lòng xác định được liệu rằng hành động của mình thực sự sẽ mang đến kết quả khả dĩ tốt đẹp nhất hay không. Thực chất, chỉ có trí tuệ toàn năng mới xác định được điều ấy-nói cách khác, chỉ có hoạt động sáng tạo của Thượng đế mới có thể thoả mãn được yêu cầu của đạo lý này.
Thuyết hiện thực đạo đức (the Ethical Realism) của Moore nhấn mạnh rằng các thuộc tính luân lý tồn tại trong chính kết quả thực tế của hành vi đạo đức, không phục thuộc vào nhận định của con người dành cho giá trị của nó. Đạo lý nằm bên ngoài khả năng ý thức của con người; một hành vi có thể là tốt hay xấu cho dù người thực hiện có nhận thức được điều đó hay không. Quan điểm này tương phản trực tiếp với chủ nghĩa trực giác vốn giới hạn đạo đức trong khuôn khổ kinh nghiệm và nhận thức của cá nhân, không cần xét đến kết quả của hành động.
Moore nhận định về một hành vi đạo đức như một Gestalt, một tổng thể hữu cơ bất khả phân cắt và luôn có giá trị lớn hơn tổng cộng các bộ phận cấu thành. Nước có tính ẩm ướt, những hydrogen (H) và oxygen (O), hai nguyên tố cấu thành nên phân tử nước (H2O), lại không có thuộc tính ấy - nước có những thuộc tính không thể tìm thấy được ở các nguyên tố thành phần của nó. Tương tự như vậy, các hành vi đúng đắn có những thuộc tính đạo đức mà chúng ta không thể phát hiện ra được quá trình phân tích. Thực vậy, cứu 1 đứa trẻ khỏi chết đuối là một nghĩa cử tốt đẹp, nhưng nếu phân tích mọi khía cạnh cấu thành nên hành động ấy, ta chẳng thể xác định được bản chất đạo đức của chúng. Có phải điều tốt lành nằm ở chỗ nhảy xuống nước? Hay ở nỗ lực nắm được đứa trẻ? Hoặc giả, ở nỗ lực kéo đứa bé lên bờ? Không có yếu tố nào cấu thành nên nghĩa cử ấy có thể được xem là hành động đạo đức; nhưng xét về mặt tổng thể, hành vi ấy được nhìn nhận là đúng đắn và tôt đẹp. Điều thiện vốn là thực hữu, nhưng chỉ tồn tại như một khối hữu cơ thống nhất; giá trị đạo đức của nó là giá trị tổng thể, không thể tìm thấy qua quá trình phân tích các yếu tố riếng lẻ cấu thành nên nó.
Tính thiện bất khả định
Moore khẳng định rằng không thể định nghĩa được tính Thiện, bởi lẽ đó là khái niệm cơ bản nhất, tối hậu và bất khả phân. Để định nghĩa một từ hay một khái niệm, chúng ta cần phải phân tích các thành tố cơ bản của nó; nhưng làm sao có thể định nghĩa được các từ ngữ khác? Tính thiện chính là khái niệm cơ bản tối hậu, vì thế chúng ta không thể định nghĩa được nó.
Hoang tưởng theo chủ nghĩa tự nhiên
Theo Moore, ý niệm về Cái Thiện là một kinh nghiệm nhận thức-vấn đề là bạn cảm nhận được nó hay là không. Với một kẻ mù loà bẩm sinh, mọi định nghĩa và khái niệm về màu sắc điều vô nghĩa. Tương tự như vây, mặc dù có thể xác định được những điều tốt đẹp, chúng ta chẳng thể nào diễn đạt trọn vẹn ý niệm về Cái Thiện. Những ai cho rằng mình đã thành công trong nỗ lực định nghĩa Cái Thiện, thông qua cách lý giải khoa học về những điều tốt lành, đã vô tình rời vào tình huống được Moore gọi là "hoang tưởng theo chủ nghĩa tự nhiên"(Naturalistic fallacy). Chúng ta cũng sẽ rơi vào tình huống tương tự khi cho rằng mình đã giúp cho một người mù loà cảm nhận được màu sắc thông qua các lý giải khoa học về màu sắc.
Ghi chú:
(1)Epicurus (341-270 trước CN ): triết gia Hy Lạp, người đề xuất một học thuyết vật về vũ trụ, một học thuyết luân lý đề cao sự né tránh đau khổ và duy trì sự bình an tâm hồn. Về sau, học thuyết này bị hiểu lầm là cổ xuý cho việc mưu cầu lạc thú cá nhân. (ND)
(2)Epictetus (50-120 sau CN ): triết gia danh tiếng của trường phái khắc kỷ. Ông sinh ra tại Syrie, mất tại Nicopolis. Ông chủ trương coi thường của cải. Chấp nhận cuộc sống kham khổ, luôn giữ vững đạo đức, khỉnh rẻ đau đớn. Ông không viết gì để lại cho đời nhưng những điều ông dạy đều được môn đệ ghi chép lại thành sách. (Theo từ điển danh nhân thế giới - Trịnh Chuyết biên soạn) (ND)
(3)Jeremy Bentham (1748-1832): Triết gia người Anh. Ông viết rất nhiều tiểu luận về thuyết vị lợi, lý giải các phương cách tổ chức xã hội và hoàn thiện luật pháp với mục đích "mang đến những điều tốt đẹp nhất cho tuyệt đại đa số". Các ý tưởng của ông có ảnh hưởng lớn đối với nhiều nhà tư tưởng của thế kỷ 19. (ND)
(4)John Stuart Mill )1806-1873): Triết gia và kinh tế gia Anh. Ông nổi tiếng với các tác phẩm về chính trị và đạo đức, như "Bàn về Tự do" (On Liberty). Bằng phương pháp lập luận, ông cổ xuý cho nền dân chủ, cho công cuộc cải cách cấu trúc kinh tế-xã hội và phê phán hiện trạng ngược đãi phụ nữ trong gia đình và xã hội. (ND)
(5)Immanuel Kant (1724-4804): Triết gia siêu hình và nhà bác học Đức gốc Scotland, người sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm phê phán, có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng khoa học và triết học tư sản thế kỷ 19. Sinh ra tai Konigsberg, nước Phổ, ông đỗ bằng Tiến sĩ Triết học tại trường Đại học Konigsberg vào năm 1755, tham gia giảng dạy tại trường này đến năm 1770 thì chính thức trở thành giáo sư môn siêu hình học và luận lý học, suốt đời độc thân và không hề ra khỏi thành phố quê hương quá 60 dặm. Ông đưa ra luận thuyết cho rằng trí tuệ con người có sẵn khả năng hiểu biết tiên nghiệm (a priori), rằng tri thức "tích luỹ" chẳng bao giờ có thể nắm bắt được bản chất tối hậu của sự thực hữu, vì nó diễn dịch thế giới theo một hệ thống nhận thức không thời gian hạn hẹp và lệ thuộc quá nhiều vào các ấn tượng giác quan. Ngoài ra ông cũng cho rằng tự do cá nhân xuất phát từ sự tuân thủ nguyên tắc đạo đức của lương tâm. (theo "Sổ tay danh nhân thế giới " của Nhà xuất bản Thanh niên, năm 1999). (ND)
(6)Arthur Schopenhauer (1788-1860): Triết gia yếm thế người Đức. Chủ nghĩa bi quan của ông xem ý nguyện sống là sự thực hữu duy nhất và cũng là nguồn gốc của mọi điều xấu xa. Vì thế, ông đưa ra lối sống khắc kỷ và độc thân, xem nghệ thuật là một phương tiện giản toả nỗi thống khổ của sự hiện hữu. Quan niệm của ông có ảnh hưởng đối với Niezsche. (ND)
(7)Friendrich Wihelm Nietzche (1844-1900): Triết gia vô thần người Đức, cha đẻ của thuyết "Siêu nhân" (Superman). Sau Immanuel Kant, ông là người có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến tư tưởng triết học tư sản phương Tây. Học thuyết của ông lf một trong những nguồn gốc của hệ tư tưởng phát xít này. Các tác phẩm của ông, đa số mang tính cách điệu và cơ sở hàm ý rất khó hiểu, gồm có "Con người, rất là người" (2 tập, 1878 -80 ), "Zarathustra đã nói thế" (1883-85), "Bên kia cái thiện và cái ác" (1886), "Phả hệ của đạo đức" (1887), "ý muốn quyền lực" (1888). (Theo sổ tay danh nhân thế giới - Nhà xuất bản Thanh niên, năm 1999). (ND)
(8)Aryan : Những dân tộc sử dụng nhóm ngôn ngữ Ấn Âu. (ND)
(9)Julius Caesar (100-44 trước CN ): chính trị gia và nhà quân sự La Mã cổ đại, nổi tiếng với các cuộc chinh phạt cũng như uy thế và quyền lực của một nhà độc tài chuyên chế. Tên ông trở thành danh hiệu dành cho các Hoàng đế La Mã, từ Augustus (63 trước CN - 14 sau CN ) đến hết thời Hadrian. (ND)
(1) Các đoạn trích dẫn được rút ra từ tác phẩm "Những bài thuyết giảng của Epictetus " (The Discourses of Epictetus) của dịch giả George Long. (TG)
(2)Những đoạn trích dẫn được rút ra từ tác phẩm "Giới thiệu các nguyên tắc luân lý và pháp chế" của Jeremy Bentham (xuất bản tại Luân Đôn năm 1780, được biên tập và chỉnh sửa lại vào năm 1823). (TG)
(3)Trích từ "Chủ nghĩa vị lợi" (Utilitarianism) của J. S. Mill , xuất bản tại Luân Đôn năm 1863, tái bản lần thứ 12 năm 1895
(4)Các đoạn trích dẫn được rút ra từ tác phẩm "Siêu hình tính của luân lý" (The Metaphysics of Morality) của Immanuel Kant, dịch giả John Watson (năm 1901) (TG)
(5)Trích từ "Thế giới ý chí và ý tưởng" (The World as Will and Idea) của Arthur Schopenhaue, bản dích của R. B. Haldane và J. Kemp (1883). (TG)
(6) Trích "Cơ sở đạo đức" (the Basis of Morality) của Arthur Schopenhauer, bản dịch của Arthurs Brodick Bullock (1903).
(7)Trích từ tác phẩm "Kẻ chống Chúa" (The Antichrist) của Friendrich Nietzche, bản dịch của Walter Kaufman (Nhà xuất bản Viking Press Incorporation, New York, 1945). (TG)
(8)Trích từ tác phẩm "Zarathustra đã nói như thế" (Thus Spake Zarathustra) của Fiedrich Nietzche, bản dịch của Thomas Common (Nhà xuất bản The Macmillan Company, New York, 1930). (TG)
(9)Trích từ tác phẩm "Triết lý trung thành" (Theo Philosophy of Loyalty) của Josiah Royce (Nhà xuất bản The Macmillan Company, New York, 1908). (TG)
(10)Trích từ tác phẩm "Đạo đức học" (Ethics), trang 106, của Geogre Edward Moore (Oxford University Press, London, xuất bản năm 1912). (ND)
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn TrọngThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpCách đây một thế kỷ, những người khổng lồ
12/05/2009Nguyên Ngọc