Chúng ta muốn gì?
Đồng hành với sự thay đổi về vai trò của bằng cấp (chứ không phải sự thay đổi nhận thức về vai trò của học vấn) là hàng loạt vấn đề mới về giáo dục - đào tạo: Chương trình quá nặng nhưng lại bất cập so với nhu cầu thực tiễn cải cách và tính hiệu quả của cải cách, lạm thu và tận thu tới mức chi phí giáo dục trở thành một gánh nặng mà người nghèo khó kham, dạy thêm và học thêm tràn lan, thể lực và trí lực của học sinh suy giảm…
- Những năm 80, thập kỷ XX: Tiền đề giúp cá nhân thăng tiến, trả nợ cơm áo hoàn toàn không phải là bằng cấp… Trong nhiều trường hợp, có bằng cấp cao còn là một thứ trở ngại cho việc tiến thân vì bị liệt vào thành phần “tiểu tư sản”.
- Những năm 90, thập kỷ XX: … cả xã hội bắt đầu quay quắt với bằng cấp, CBCNV trong hệ thống công quyền đua nhau đi học và trông vào nhau để học. Số cán bộ công chức có học vị Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ mỗi ngày một nhiều. Sau những “scandal” về bằng giả là những “scandal” về bằng thật nhưng học….giả.
- Và lúc này là: Hàng loạt vấn nạn mới về giáo dục đào tạo: chương trình qúa nặng nhưng lại bất cập so với nhu cầu thực tế, cải cách và tính hiệu quả của cải cách, lạm thu và tận thu tới mức chi phí giáo dục trở thành một gánh nặng mà người nghèo khó khăn, dạy thêm và học thêm tràn lan, thể lực và trí lực của học sinh suy giảm…
Khoảng đầu thập niên 1980, trường Tân Thạnh (nay là trường THCS Lê Lợi) - phường 15 Tân Bình, TP.HCM (khi ấy còn là vùng ven cấp cho nội thành TP.HCM), chỉ đào tạo đến lớp 6, Cha người viết bài này cùng với vài giáo viên khác được điều về Tân Thành để trường có thể mở thêm lớp 7, lớp 8, rồi lớp 9 hoàn tất việc đào tạo bậc trung học cơ sở cho địa phương. Đó cũng là giai đoạn mà ông bắt đầu hay thở dài...
Ngoài chuyện dạy toán, ông còn là giáo viên chủ nhiệm những lớp 7, lớp 8, lớp 9 đầu tiên của trường Tân Thành. Do trẻ con ham chơi hơn ham học nên ông thường phải tìm gặp Phụ huynh của chúng… Người ta vừa cám ơn vì ông đã quan tâm đến con mình, vừa thẳng thắn thưa rằng bởi học vấn, bởi bằng cấp không đảm bảo sự no đủ cho đứa trẻ trong tương lai, nên học nữa hay không, học như thế nào là chuyện của đứa trẻ, do chính nó quyết định... Theo nghề "gõ đầu trẻ" từ năm 1958 nhưng cha tôi không đủ khả năng để thuyết phục những nông dân chất phác về ích lợi của giáo dục...
Thời đó, thu nhập hằng tháng của một giáo viên chỉ ngang với hoa lợi thu về từ một luống rau. Giáo viên bị xem là nghề "bết bát" nhất. Khi lựa chọn nghề nghiệp, học sinh xác định: "nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách khoa" chỉ khi nào "chuột chạy cùng sào, mới vào Sư phạm". Tiền đề dành cá nhân thăng tiến, trả nợ cơm áo hoàn toàn không phải là bằng cấp. Những chuyện như "Cao học Vật lý đi bán phở, cử nhân Anh văn đạp xích lô… " trở thành phổ biến đến mức được đặt thành vè, được giới thiệu trên báo. Trong nhiều trường hợp, có bằng cấp cao còn là một thứ trở ngại cho việc tiến thân vì bị liệt vào thành phần "tiểu tư sản". Thậm chí với công chức, đôi khi được cử đi học bị xem là phương thức dùng để loại trừ một cá nhân ra khỏi vị trí mà anh ta đang đảm nhiệm. Cũng vào thời đó, lý lịch trở thành tiêu chí thay cho học lực trong tuyển chọn vào đại học. Tù chuyện cha mẹ làm gì mà thí sinh dư thi đại học được xác định là đối tượng thứ bao nhiêu, thuộc nhóm nào trong bốn nhóm. Nếu thuộc nhóm 1, chỉ cần đạt khoảng 5/30 điểm, còn thuộc nhóm 4 thì điểm thi phải khoảng 25 điểm trở lên mới có cơ may trúng tuyển, chưa kể có trúng tuyền chưa chắc đã được Ban Tuyển sinh địa phương cho đi học...
Sau giai đoạn ấy, những tồn tại vừa kể được khắc phục từ từ. Việc chuẩn hóa chức danh trong hệ thống công quyền đã khiến bằng cấp trở thành một yếu tố không thể thiếu nếu cá nhân muốn thăng tiến. Từ lúc này, cả xã hội bắt đầu quay quắt với bằng cấp. Chẳng phải chỉ trẻ con mới bị buộc phải học để có thể lấy được bằng kia, chứng chỉ nọ chuẩn bị cho việc vào đời, lập thân mà ngay cả người lớn cũng bị bằng cấp chi phối. Cán bộ, công chức trong hệ thống công quyền đua nhau đi học và trông vào nhau để học. Thậm chí, cơ quan không cử đi học, người ta vẫn tự thu xếp để tìm cho mình ít nhất là một tấm bằng. Số cán bộ, công chức có học vị Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ mỗi ngày một nhiều. Kèm theo đó là vô số điều tiếng. Sau những "scandal" về bằng giả là những "scan-dal” về bằng thật nhưng học… giả. Số trường hợp chưa tốt nghiệp trung học phổ thông, thậm chí chưa tốt nghiệp trung học cơ sở nhưng có vài ba bằng cử nhân, thậm chí có cả bằng thạc sĩ… không còn là cá biệt. Theo một Giáo sư, Tiến sĩ ở Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước, vào thập niên 1970 - 1980, người ra nước ngoài làm nghiên cứu sinh chỉ cần có bằng tốt nghiệp đại học của Việt Nam. Đến thập niên 1990, khi hệ thống đào tạo của Việt Nam có thêm văn bằng thạc sĩ, các nước yêu cầu người Việt Nam muốn làm nghiên cứu sinh phải có học vị thạc sĩ. Sang thế kỷ XXI, một số nước bắt đầu không công nhận bằng thạc sĩ của Việt Nam và bắt các nghiên cứu sinh Việt Nam phải thi lấy bằng thạc sĩ của họ rồi mới nhận vào làm nghiên cứu sinh... Những câu chuyện đó làm người ta vừa buồn cười, vừa muốn khóc.
Đồng hành với sự thay đổi về vai trò của bằng cấp (chứ không phải sự thay đổi nhận thức về vai trò của học vấn) là hàng loạt vấn nạn mới về GDĐT: chương trình quá nặng nhưng lại bất cập so với nhu cầu thực tế, cải cách và tính hiệu quả của cải cách, lạm thu và tận thu tới mức chi phí giáo dục trở thành một gánh nặng mà người nghèo khó kham, dạy thêm và học thêm tràn lan, thể lực và trí lực của học sinh suy giảm…
Thiên hạ vẫn xem giáo dục cơ bản là phương thức duy nhất để xây dựng các thế hệ công dân dã nhận thức và khả năng sống có ích trước hết là với chính mình, sau đó là gia đình và xã hội nhằm đảm bảo tính bền vững cho công cuộc phát triển của một quốc gia. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều quốc gia tiến hành cưỡng bức giáo dục (trẻ con bị buộc phải đến trường và học cho đến khi hoàn tất bậc nào đó, toàn bộ chi phí giáo dục sẽ do Nhà nước đài thọ, nếu đứa trẻ không đến trường, cha mẹ của nó sẽ bị chế tài, thậm chí bị truy cứu trách nhiệm hình sự). Riêng tại Việt Nam, tử chủ trương đến cưng cách quản lý, điều hành, thậm chí định hướng và cách thức điều chỉnh hoạt động GDĐT hình như chỉ nhắm đến lợi ích của các cá nhân có liên quan đến quá trình triển khai, thực hiện, chứ không phải là quyền lợi của cá nhân thụ hưởng (học sinh, sinh viên) hay gia đình đối tượng thụ hưởng hoặc xã hội. Nhận xét này có thể dễ gây dị ứng nhưng chọn một lối nhận định khác thì sẽ giải thích thế nào về hàng loạt nghịch lý của GDĐT: nhiều học sinh không biết đọc, biết viết vẫn lên tới lớp 5. Trường học xây chưa xong đã xuống cấp. Tuyển sinh phải theo chỉ tiêu do Bộ GDĐT quyết định. Bộ GDĐT độc quyền in và phát hành hồ sơ đăng ký dự thi (giá bán cao gấp vài lần giá thành), tài liệu luyện, soạn và bán sách giáo khoa (mới đây, Nhà xuất bản Giáo dục vừa cho biết sẽ giảm giá bán để chống sách in lậu)…
Chúng ta thực sự muốn gì từ Giáo dục đào tạo? Đã có rất nhiều khẩu hiệu nhưng còn mục tiêu thực sự là gì?
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn TrọngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc Hiếu“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Cơ hội thứ tư - toàn cầu hóa
18/04/2004Nguyễn Trần BạtThấy gì qua lối sống sinh viên thời nay?
21/10/2003Trương HiệuBa yếu tố làm nên thành công của doanh nhân
29/07/2005Nguyễn Trần Bạt