Buổi hoàng hôn của khoa học
Vấn đề giới hạn của nhận thức ngày càng trở thành quan trọng vì nó không chỉ là vấn đề của triết học, mà của chính khoa học, ảnh hưởng đến các định hướng nghiên cứu khoa học. Vào thời điểm bản lể chuyển từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, nó đã trở thành một trong các đề tài nghiên cứu khoa học được chú ý nhất.
Thật là kỳ lạ, hơn 25 thế kỷ trước, bằng kinh nghiệm và trực giác thiên tài, Khổng Tử đã khẳng định rằng nhận thức có giới hạn và nhận thức được rằng nhận thức có giới hạn mới thực sự được coi là nhận thức. Và 25 thế kỷ sau, bằng con đường phân tích mổ xẻ đến nới đến chốn, khoa học cũng tiệm cận đến nhận định tương tự, một cách cụ thể hơn: cần phải biết cụ thể cái gì là cái không thể biết.
Cuốn sách Buổi hoàng môn của khoahọc (The End of Science) của John Horgan, do Little Brown and Companyxuất bản, đã và đang gây tranh cãi trong giới khoa học tại các quốc gia có nền khoa học và công nghệ phát triển vì nội dung của nó như tác giả viết: " Nếu chúng ta tin vào khoa học, thì chúng ta phải chấp nhận khả năng - thậm chí là nhiều khá năng - rằng thời đại vĩ đại của khám phá khoa học đã qua rồi".
Ý kiến trong sách thực ra không phải của Horgan, mà của toàn những nhà khoa học đáng kính đang cầm cân nẩy mực hiện nay. Horgan chỉ là một nhà báo chuyển tải những ý kiến đó đến độc giả, với một nghệ thuật trình bày hết sức thuyết phục, đến nỗi tờ New York Times không tiếc lời ca ngợi: cuốn sách đã "móc nối các kiến thức một cách rất trí tuệ, sáng chói, đưa ra các lý lẽ mạnh mẽ cho thấy các khám phá khoa học lớn nhất và tuyệt vời nhất đã ở đằng sau chúng ta rồi" .Và cuốn sách là "một sự giới thiệu ngắn gọn một cách kỳ diệu các thành tựu khoa học vĩ đại nhất trong 15 hoặc 20 năm vừa qua”.
Thật vậy, cuốn sách của Horgan không làm cho chúng ta bị hụt hẫng, thất vọng vì sự “khốn cùng” của khoa học, mà buộc chúng ta trầm mình xuống để suy nghĩ về ý nghĩa thực sự của khoa học, về tham vọng của con người, về sự cần thiết phải tỉnh táo cân nhắc trong định hướng phát triển, về triển vọng hiện thực của khoa học, về tham vọng của con người, về sự cần thiết phải tỉnh táo cân nhắc trong định hướng phát triển, về triển vọng hiện thực của khoa học, về sự ngây thơ ngông cuồng trong khoa học, về bàn chất giới hạn của nhận thức. Mục đích chú yếu của cuốn sách lộ rõ trên trang bìa: "Đối mặtvới giới hạn của nhận thức vào buổi hoàng hôn của thế kỷ khoa học”.Thật vậy thái độ khoa học chân chính là dám đối mặt với thách thức và nếu bán thân nhận thức có những tháchthức đối với nhận thức thì hãy sẵn sàng đối mặt với nó.
Sựthách thức của nhận thức đối với nhận thức là câu hỏi "nhận thức, bản thân nó có giới hạn hay không? Nếu trả lời "không", thì có nguy cơ phạm sai lầm trong định hướng phát triển: chương trình siêu - toán - học sau thế kỷ XX và trào lưu "toán học mới" trong nửa sau thế kỷ XX là thí dụ điển hình nhất về sự bết chấp giới hạn của toán học, gây tổn thất không kể xiết đối với nghiên cứu và giáo dục toán học. Nếu trả lời "có", nghĩalà nhận thức có giới hạn, thì lập rức cần phải xem lại các định hướng phát triển như thế nào cho đúng. Chẳng hạn: Liệu có thể có một lý thuyết về mọi thứ (Theory of Everything) như vật lý đang theo đuổi hay không? Liệu có thể có trí thông minh nhân tạo không? Liệu có thể “chế tạo” ra một con người hoàn toàn bình thường bằng nhân bản vô tính hay không? Hiệnnay có quá nhiều câu hỏi lớn như thế. Những câu hói này dẫn khoa học tới chỗ chia rẽ trầm trọng chưa từng có: một nửa ủng hộ lao vào nghiên cứu như những con thiêu thân, nửa còn lại khẳng định rằng họ sẽ thất bại, sẽ lãng phí tiền của và thậm chí phí tiền của và thậm chí sẽ đem lại những thiệt hại to lớn chưa thề lường hết.
Trong bối cảnh của những khám phá mới, vấn đề giới hạn của nhận thức ngày càng trở thành quan trọng vì nó không chỉ là vấn đề của triết học, mà của chính khoa học, ảnh hưởng đến các định hướng nghiên cứu khoa học. Vào thời điểm bản lề chuyển từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, nó đã trở thành một trong các đề tài nghiên cứu khoa học được chú ý nhất. Đó là lý do ra đời một loạt sách báo về đề tài này, trong đó cuốn sách của Horgan là một cuốn tiêu biểu. Một Hội nghị thế giới tập trung các nhà khoa học hàng đầu để bàn thảo vấn đề này đã được tồ chức tại Đại học Sante Fe ở Mỹ. Trong gian đại sảnh của Hội nghị, đập vào mắt các đại biểu là một tiêu đề lớn: "The Limits of Science Knowledge" (Giới hạn của hiểu biết khoa học). Nhà toán học nổi tiếng John Casti, chủ toạ Hội nghị, khai mạc bằng câu hỏi: "Phải chăng thế giới quá phức tạp đối với chúng ta để hiểu nó?” Joseph Traub, một nhà khoa học lý thuyết computer bậc nhất, giáo sư Đại học
Ngay lập tức cuộc thảo luận bùng nổ, rất sôi nổi, nhiều ý kiến vô cùng đặc sắc, thú vị. Độc giả có thể tìm thấy bản tường thuật trong cuốn sách của Horgan. Ở đây chỉ xin trích một mẩu ý kiến của Chaitin: "Thông thường chúng ta hay cho rằng nếu người ta nghĩ cái gì là đúng thì nó phải đúng vì một lý lẽ nào đó. Trong toán học lý lẽ ấy được gọi là một chứng minh, và công việc của nhà toán học là tìm kiếm chứng minh - những lý lẽ, suy luận từ các tiên đề hoặc những nguyên lý được chấp nhận trước. Nhưng hiện nay, cái mà tôi khám phá ra là các chân lý toán học đúng chẳng cần phải có một lý do nào cả. Chúng đúng một cách bất ngờ hoặc ngẫu nhiên.
Nếu Chaitin đúng, hoặc nói cách khác, nếu cái đà lý là luận kiểu Chaitin mà phát triển trong khoa học, thì phỏng khoa học còn có ý nghĩa gì nữa? Không, chúng ta khó có thể nhắm mắtchấp nhận ý kiến của Chaitin, nhưng... có lẽ chúng ta cũng không thể nhàm mắt tảng lờ ý kiến của Chaitin. Một lần nữa, chúng ta phảidám "đối mặt với giới hạn của nhận thức như John Horgan đề nghị.
Một "cú đòn" trời giáng khác màHorgan làm choáng váng độc giả là chương dành cho vật lý "The End of Physics" (Ngày tận của vật lý), trong đó thể hiện mối nghi ngờ về khả năng thành công của lý thuyết lớn nhất của vật lý ngày nay là “Lý thuyết về mọi thứ”. Những người bày tỏ thẳng thắn mối nghi ngờ của họ chẳng phải ai khác chính những người đã góp công lớn để xây dựng lý thuyết đó. Một, đó là Sheldon Glashow, một trong ba người đoạt giải Nobel vật lý năm 1979 vì một đề tài tiền thân của Lý thuyết về mọi thứ. Ông gọi lý thuyết về mọi thứ là “Chiếc ly của Chúa" (chiếc ly Chúa Giêsu dùng trong bữa tiệc ly trước khi bị hành hình), ngụ ý đó là cái thiêng liêng trong ý tưởng nhưng không bao giờ thành hiện thực! Người thứ hai là Roger Penrose, tác giả của những công trình tuyệt tác về tổng chứng minh sự tồn tại của điểm kỳ dị của các hốc đen và của toàn bộ không - thời gian, làm cơ sở cho Lý thuyết Big Bang. Penrose nói rõ rằng ông không tin vào bất cứ lý thuyết nào hiện nay, kể cả Lý thuyết siêu dây, có thể coi là có hy vọng tiến đến Lý thuyết về mọi thứ.
Nếu nhận thức được ý nghĩa của tất cả những thách thức đó, khoa học buộc phải định hướng phát triển thông minh nhất, sao cho có thể dồn nỗ lực vào những nghiên cứu có hiệu quá nhất, thiết thực nhất.
Để làm được điều đó, câu hỏi của Joseph Traub có lẽ là câu hỏi quan trọngnhất. Xin nhắc lại ở đây: "Liệu chúng ta có thểbiết cáigì là cái không thể biết hay không?”
Câu hỏi này làm chúngta nhớ lại di huấn củaKhổng Tử: "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã" (Cái gì biết thì biết là mình biết, cái gì khôngbiết thì biết là mình không biết, đó là biết vậy).
Thật là kỳ lạ, hơn 25 thế kỷtrước, bằng kinh nghiệm và trực giác thiên tài, Khổng Tử đã khẳng định rằng nhận thức có giới hạn và nhận thức được rằng nhận thức có giới hạn mới thực sự được coi là có nhận thức. Và 25 thế kỷ sau, bằng con đường phân tích mổ xẻ đến nơi đến chốn, khoa học cũng tiệm cận đến nhận định tương tự, một cách cụ thể hơn.
Cần phải biết cụ thể cái gì là cái không thể biết. Godel và Turing đã làm điều đó đối với toán học và khoa học tính toán. Hậu thế sẽ phải tiếp tục con đường của Godel và Turing để làm điều tương tự đối với vật lý, sinh học, và khoa học nói chung.
Dẫu rằng nhiệm vụ này vô cùng khó khăn, và có thể chính nó lại nằm trong lĩnh vực không thể biết, nhưng dẫu sao nó cũng đã đánh một tiếng chuông cảnh tỉnh đối với khoa học, khuyến dụ khoa học phải tỉnh táo hơn trên con đường phát triển. Và nó có một phản ứng phụ: Vì không bao giờ có thể đi đến một lý thuyết cuối cùng trong bất kỳ lĩnh vực tri thức nào, do đó các nhà khoa học sẽ không bao giờ thất nghiệp, ngược lại họ sẽ luôn luôn phải bận rộn với những bài toán chưa giải được để giải, bởi vì vĩnh viễn sẽ tồn tại rất nhiều bài toán như thế. Chỉ có điều cần phải chú ý đến những bài toán đáp ứng với quyền lợi thiết thực của con người nhiều hơn, thay vì nhất định đòi hiểu được ý Chúa.
Tóm lại, cuốn sách của Horgan không hề khiêu khích, ngược lại nó khuyến khích chúng ta tư duy! Mong sao sách sẽ được dịch ra tiếng Việt để đến tay mọi bạn đọc Việt
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu Đổng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngCon người hiểm độc
01/01/1900Phạm QuỳnhCơ hội thứ tư - toàn cầu hóa
18/04/2004Nguyễn Trần BạtThấy gì qua lối sống sinh viên thời nay?
21/10/2003Trương Hiệu