Về bản dịch bài thơ Nam quốc sơn hà được đưa vào sách giáo khoa lớp 7

08:11 CH @ Thứ Năm - 12 Tháng Mười Một, 2015

Lê ThướcNam Trân, tác giả bản dịch bài thơNam quốc sơn hàmới được đưa vào sách giáo khoa lớp 7, đều là những dịch giả tiếng tăm một thời. Quận 2 TP HCM còn có con đường mang tên Lê Thước, bởi bên cạnh những cuốn sách mà ông dành nhiều tâm huyết, như Hán văn tân giáo khoa thư (Sách giáo khoa mới về Hán văn), "Truyện cụ Nguyễn Du" và "Sự nghiệp thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ", ông từng giữ nhiều vị trí quan trọng trong ngành văn hóa, giáo dục của chính quyền cách mạng Việt Nam. Cùng thời với ông, Nam Trân cũng sớm tham gia cách mạng. Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà Văn Việt Nam. Ông cũng là một trong những giảng viên lớp đại học Hán Nôm đầu tiên ở miền Bắc. Ông chính là người chủ trì dịch tập Ngục trung nhật ký.

Nói về các ông là nói về những cây đa cây đề trong làng chữ nghĩa Hán Nôm.


Bìa cuốn Ngữ văn lớp 7 tập 1 và trang sách in bài thơ Nam quốc sơn hà - Ảnh: H.P.

Bản dịch SGK Ngữ văn lớp 7, tập 1, trang 62 (Lê Thước và Nam Trân dịch):

Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.


Tuy nhiên, bản dịch Nam quốc sơn hà của hai ông chắc chắn không phải là một thành công như những tác phẩm khác, nếu không muốn nói đó là một bản dịch hoàn toàn thất bại.

Thứ nhất, ngay câu đầu tiên các ông đã tùy tiện dịch hai từ "Nam quốc" thành "Nam Việt": Núi sông Nam Việt vua Nam ở. Trong một bài báo (đăng trên báo Giáo dục) phân trần về lý do chọn bản dịch này để đưa vào sách giáo khoa lớp 7, chính ông tổng chủ biên cũng nói rằng phải thay câu này bằng câu của bản dịch cũ, vì nước ta chưa bao giờ mang quốc hiệu Nam Việt (!)

Thứ hai, câu "Tiệt nhiên định phận tại thiên thư" được các ông dịch là "Vằng vặc sách trời chia xứ sở". Sự tùy tiện được đẩy cao hơn một mức nữa bằng việc sử dụng từ láy tượng hình "vằng vặc". Đây là từ dùng để mô tả ánh sáng và không gian ban đêm. Người ta nói "trăng sáng vằng vặc", "trời sao vằng vặc", "vằng vặc trăng soi"... Với việc đặt từ "vằng vặc" bên cạnh "sách trời" vô hình chung các dịch giả đã ví sách trời như mặt trăng, biến cái siêu phàm thành cái hữu hình, biến thứ thiêng liêng thành ra trần thế. Hơn nữa, trong văn hóa phương đông trăng và đêm đều thuộc âm, chỉ sự yếu mềm, không thể đem làm tuyên ngôn độc lập. Việc mang cụm từ "sách trời" ra khỏi vị trí trọng tâm ở cuối câu cũng làm mất đi tính tuyên ngôn mạnh mẽ của nguyên tác.

Sự tùy tiện lên tới đỉnh điểm khi hai dịch giả tự ý thêm vào từ "xứ sở". Không còn là nước, mà là xứ sở. Đó chính là thứ mà nhà nước phong kiến Trung Hoa vẫn "phong" cho các vương triều chư hầu. Trên thế giới, "xứ" cũng được dùng để chỉ các vùng lãnh thổ phụ thuộc, không có nền độc lập, ví dụ như Xứ Wale. Không có lý gì mà khi tuyên bố nền độc lập ta lại đi xưng là là "xứ sở".

Hai câu tiếp theo càng làm mất đi cái khẩu khí của một bản tuyên ngôn độc lập.

"Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ"

"Nghịch lỗ" mà dịch là "giặc dữ"thì chẳng bằng đưa thêm vũ khí cho giặc, bởi "dữ" bao hàm sức mạnh. Dữ đi liền với ác, nhưng dữ cũng là dữ dội.

Câu cuối "bản tuyên ngôn" bị hai dịch giả biến thành văn nói hoàn toàn khi dùng đại từ nhân xưng "chúng mày". Về ngữ pháp, việc dùng cụm từ "nhất định phải"khiến cho câu này mang ý nghĩa thể hiện ý chí chủ quan, chứ không mạnh mẽ khẳng định một kết cục khách quan tất yếu cho lũ giặc như trong bản dịch cũ: "Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!".

Tóm lại, bản dịch của hai ông làm hỏng tinh thần của nguyên tác về mọi mặt và khiến cho nó trở thành một bài thơ lủng củng, nửa văn nói nửa văn viết. Bộ GD&ĐT lại tùy tiện thay câu đầu, đổi câu sau, khiến cho nó càng lủng củng hơn. Việc ông Tổng chủ biên Nguyễn Khắc Phi nói rằng: "Nguyên tắc biên soạn sách giáo khoa ở nước ta cũng như nước ngoài, cho phép người biên soạn có quyền sửa chữa cho phù hợp nội dung", và rằng việc này đã được thông qua bởi cả một hội đồng, chỉ là bao biện. Nếu không, chỉ có thể đoán rằng bản dịch cũ bị thay thế chính là bởi người dịch là Trần Trọng Kim. Nhưng người ta quên rằng cho dù ông là một trí thức không thuộc phe cách mạng, là Thủ tướng "Chính phủ bù nhìn", thì bản dịch của ông vẫn đi vào lòng dân tộc, giống như nguyên tác vậy.

Nguyên tác chữ Hán:

南 國 山 河

南 國 山 河 南 帝 居
截 然 定 分 在 天 書
如 何 逆 虜 來 侵 犯
汝 等 行 看 取 敗 虛

Nguyên tác (phiên âm):

Nam quốc sơn hà

Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!


Dịch nghĩa (theo Thơ văn Lý- Trần tập):
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.


Bản dịch của Trần Trọng Kim:

Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm ?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!"


Bản dịch thơ (Phạm Trần Anh):
Sông núi trời Nam của nước Nam
Sách trời định rõ tự muôn ngàn
Cuồng ngông giặc dữ vào xâm lấn
Chuốc lấy bại vong lấy nhục tàn


Bản dịch thơ (Ngô Linh Ngọc dịch):
Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự,
Sách trời định phận rõ non sông.
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm?
Bay hãy chờ coi, chuốc bại vong!


Bản dịch thơ (Bùi Văn Nguyên dịch):
Sông núi nước Nam, Nam đế chủ,
Cõi bờ định rõ tại thiên thư.
Cớ sao nghịch tặc dám xâm phạm?
Bay liệu, rồi đây chuốc bại hư!


Bản dịch SGK Ngữ văn lớp 7, tập 1, trang 62 (Lê Thước và Nam Trân dịch):
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Ngày Quốc khánh ngẫm về bản tuyên ngôn lập quốc

    02/09/2018GS NGND Nguyễn Ngọc LanhNhững ngày này, mỗi người Việt Nam chúng ta thường bồi hồi nhớ về chặng đường đã qua, và nghĩ tới tương lai của dân tộc, nghĩ đến những gì còn trăn trở, còn phải làm tốt hơn để tương lai Việt Nam đạt được những di nguyện của Bác Hồ, xây dựng một nước Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc...
  • Một số đặc trưng cơ bản của Nho giáo Việt Nam

    06/01/2015Nguyễn Tài ThưHiện có nhiều ý kiến khác nhau về đặc trưng của Nho giáo ở Việt Nam, như vấn đề ứng dụng trong thực tế, sáng tạo trong hành động, giản đơn trong lập luận, rập khuôn, giáo điều trong tư duy, v.v.. Vậy, đặc trưng của Nho giáo Việt Nam trong lịch sử là gì và vì sao lại có đặc trưng đó? Đó là những vấn đề hiện vẫn mang tính cấp bách và cần được nghiên cứu sâu hơn.
  • Tại sao hai triều đại Lý Trần lại đạt được sự thịnh vượng?

    22/08/2014Hà Thủy NguyênThời kỳ cầm quyền của nhà Lý (1009-1225) và nhà Trần (1226-1400) là hai triều đại thịnh vượng nhất trong lịch sử Việt Nam từ trước đến nay. Nhiều sách sử cho rằng triều đại nhà Lê mới là triều đại mạnh nhất, nhưng đa số người đọc đã bị nhầm lẫn giữa hai khái niệm: sự thịnh vượng và tập trung quyền lực...
  • Vận mệnh nước Việt cần sự dấn thân của cả dân tộc

    06/06/2014Kỳ DuyênVận mệnh sinh tử nước Việt lúc này không thể chờ sự … bâng khuâng, mà cần sự thay đổi nhận thức và sự dấn thân của cả dân tộc, của chính quyền, của nhân dân...
  • Bài thơ “Thần” và đôi điều hiệu đính

    23/05/2014Nguyễn Đình MinhBài thơ “Thần” (Nam quốc sơn hà) được coi như bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam và tác giả là Lý Thường Kiệt. Đây cũng là tác phẩm được biên tập trong sách giáo khoa, THCS và THPT (Cấp 2 và cấp 3), nhiều thế hệ học sinh đã học và làm bài luận. Nhưng trải qua nhiều năm tháng những cái sai, cái lệch của nó vẫn chưa được điều chỉnh kịp thời để trả lại nó nguyên vẹn những ý nghĩa lịch sử và văn học...
  • Xã hội và văn hóa tri thức Việt Nam (Kỳ 4)

    07/12/2011TS. Trịnh Văn ThảoĐể đánh giá thân phận của Nho giáo trong
    xã hội Việt Nam từ lúc nó bắt đầu trở thành chính giáo (nghĩa là dưới
    triều đại Lê Thánh Tông), chúng ta theo Max Weber thử nhìn lịch sử tiến
    hoá của Nho giáo dưới ba khía cạnh:
    1. Sự nghiệp văn học của nho sĩ Việt Nam từ Nguyễn Trãi đến thời cận kim.
    2. Thân phận nhà nho nói chung trong xã hội Việt Nam thời cổ điển.
    3. Nho giáo trong văn hoá dân tộc miền đồng bằng sông Hồng cho đến thời thuộc địa...
  • xem toàn bộ