Từ một kỷ lục về trích dẫn

06:21 SA @ Thứ Năm - 09 Tháng Mười, 2014

Hoặc là khoa học nước nhà đang “có vấn đề”, hoặc là chức danh giáo sư chỉ là kết quả của quá trình “Sống lâu lên lão làng”

Năm 2004, đọc tiểu luận của NN đăng trên tạp chí Nghiên cứu Văn học, ngoài việc đề xuất một hướng nghiên cứu theo tôi còn rất “mông lung”, NN còn đưa tới cho tôi một nỗi kinh hoàng, ấy là bài viết chỉ quảng 10 trang giấy mà kèm theo tới 53 trích dẫn và chú thích! Khiếp quá, đọc một tiểu luận tần đầy các trích dẫn theo lối “ông John” cho rằng, “bà Smith” từng viết, rồi ông “ốp” ông “ép” đã nói…, tôi không thể nắm bắt đâu là khám phá, quan niệm học thuật của NN và đâu là khám phá, quan niệm “nói theo”. Ngẫm lại, thấy cũng không nên trách cứ NN, vì nhiều bậc thầy của anh vẫn thường làm như vậy và nếu có quan tâm, thì nên thừa nhận NN đã lập một kỷ lục!

MÊ HỒN TRẬN CÁC TRÍCH DẪN

Có một sự thật không thể chối cãi được rằng, không rõ tự bao giờ, trong rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học xã hội- nhân văn ở nước Nam ta luôn luôn ngổn ngang các trích dẫn, đến mức đôi khi tiếp xúc một công trình, người đọc như bị lạc vào giữa “mê hồn trận” các trích dẫn, các ý kiến của người khác…

Với những công trình như thế, ý tưởng khoa học thật sự của tác giả và hiệu quả thực tế thật đáng nghi ngờ. Tôi đã đọc khá nhiều công trình của một vị giáo sư văn học, và nhận ra mỗi khi đề xuất một nội dung nghiên cứu, giáo sư đều dẫn lại ý kiến của một danh nhân, một nhà khoa học đã từng nói… “y chang” với những gì ông đang trình bày. Kỳ thú nhất có lẽ phải kể tới vô số công trình nghiên cứu Thơ mới, trong đó hầu như cứ bàn đến Xuân Diệu là người viết cố chứng minh Xuân Diệu “tha thiết, nồng nàn”, bàn đến Huy Cận là người viết cố chúng minh chàng Huy Cận “buồn”, thậm chí gần đây còn có một cuốn sách xuất bản chỉ nhằm để khẳng điịnh Nguyễn Bính “chân quê” …, tóm lại là người ta dành khá nhiều công sức và chữ nghĩa nhằm chứng minh điều mà cách nay hơn nửa thế kỷ, trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã nói rồi!

Gần đây trong một công trình nghiên cứu văn chương được quảng bá khá hoành tráng, khi đề cập các nhà thơ dân tộc ít người có vị giáo sư chỉ tiến hành một thao tác nghiên cứu duy nhất là liệt kê một dãy tên tuổi từ Y Phương đến Lò Ngân Sủn, rồi không đưa ra ý kiến cá nhân nào, ông dẫn lại nhận xét của Lâm Tiến để đánh giá. Khi những sản phẩm như vậy cũng được coi là công trình nghiên cứu thì, hoặc là khoa học nước nhà đang “có vấn đề”, hoặc là chức danh giáo sư chỉ là kết quả của quá trình “sống lâu lên lão làng”!

Ấy là chưa kể tới việc người ta trích dẫn theo kiểu “ăn theo”. Ông X trích từ cuốn sách A một đoạn (không rõ ông X có thực đọc hay không?); ông Y thấy hay hay liền trích theo ông X; đến lượt ông Z tiếp tục “dẫn lại” từ ông Y … Thế là trong tính lên tục của nó, đoạn trích từ cuốn sách A dược dẫn lại trong công trình của X,Y,Z … và người dẫn lại không phải đọc, không cần phải truy nguyên.Tình huống trên thường diễn ra với các giả kinh điển. Toàn tập của các ông đã xuất bản từ hàng chục đến vài chục năm, vẫn thấy có người dẫn lại từ những cuốn sách được xuất bản ở Việt Nam từ những năm 60 của thế kỷ trước.

LƯỜI NHÁC TRONG LAO ĐỘNG TRÍ TUỆ

Dẫn lại, chú thích ý kiến của người khác trong các công trình nghiên cứu khoa học vốn là việc bình thường, trong từng trường hợp cụ thể đó là yêu cầu bắt buộc, nhưng khi sự trích dẫn, chú thích đã đạt đến tình trạng “lạm phát” thì tôi lại thiếu tin cậy vào tác giả. Buộc tôi phải đạt ra các khả năng:

một, “ý tưởng” khoa học chỉ là “đồng dạng phối cảnh” với ý tưởng của người khác;

hai, “ý tưởng” chưa đủ độ chín tác giả không đủ bản lĩnh, không dám chịu trách nhiệm về mình, cần được “bảo lãnh”;

ba, tác giả chỉ là một người “thuộc bài”?

Xét đến cùng, ba khả năng trên đều có chung một nguồn gốc, ấy là khi nhà khoa học lười nhác trong lao động trí tuệ, tồi tệ hơn, là không có khả năng nghiên cứu khoa học. Tương tự như vậy, có thể đặt ra nhiều câu hỏi đối với các nhà khoa học được tin tưởng giao trọng trách “nghiệm thu” một công trình nào đó mà sau khi nghiệm thu nó lại bị dư luận phê phán. Họ không đọc? họ không có khả năng phân biệt đúng sai? Họ nể nang? Họ …? Phải chăng từ những khả năng trên đây vô số công trình nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn có kinh phí từ vài chục triệu đồng đến hàng tỷ đồng đã không được công bố để cho những người trong nghề tham khảo, học hỏi?

Nói thật đơn giản, để các phát minh khoa học, các công trình nghiên cứu có thể sinh tồn và hữu ích với hoạt động của con người, trước hết đó phải là sự giải đáp các câu hỏi liên quan trực tiếp đến lĩnh vực nào đó thuộc về tự nhiên - xã hội - con người, là sự nắm bắt các nhu cầu và tìm ra, xây dựng khả năng đáp ứng nhu cầu …

Như vậy, muốn đạt một câu hỏi, muốn nắm bắt một nhu cầu, từ nền tảng một tri thức nhất định, người nghiên cứu cần khảo sát cụ thể về thực tiễn, suy ngẫm, luận chứng và đề xuất…, nếu có “kế thừa” ý tưởng của người đi trước thì phải là sự “nâng cấp” chứ không phải là sự “nhai lại”. Nói cách khác, với nghiên cứu khoa học, người ta phải suy nghĩ từ “cái đầu” của chính mình chứ không phải từ cái đầu của người khác. Nếu yêu cầu đó trở thành một thước đo nghiêm cẩn trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn ở Việt Nam, liệu bao nhiêu công trình sẽ phải tự triệt tiêu từ “khoa học”. Câu trả lời xin dành cho các nhà khoa học, nếu như họ đủ tự trọng “tự vấn” về công trình của mình .


Nghĩ thêm về bệnh thông thái

Bài trả lời của Đỗ Thích (Hà Nội)
nhân đọc "Từ một kỷ lục về trích dẫn..." trên báo TT&VH ngày 15/4

Đọc bài tôi thấy tác giả Nguyễn Hòa đã gãi đúng chỗ ngứa của không biết bao nhiêu độc giả.

Trong bài viết tác giả có nêu ra 3 lý do có thể khiến người ta lạm phát trích dẫn. Theo tôi cần phải bổ sung thêm một lý do quan trọng nữa, đó là thói “sính chữ”, thích viện ra ông John, bà Smith cho sang, cho oai, cho có vẻ thông thái. Thói này thường có ở những người đọc nhiều có trí nhớ tốt, nhưng không tiêu hóa hết, đâm gia “tẩu hỏa nhập ma”, lâu ngày không trị thành bệnh.

Chính vì muốn tỏ gia thông thái, nên nếu cứ đọc kỹ các nội dung được trích dẫn ta sẽ thấy dường như các danh nhân ấy toàn nói những điều chung chung, đại khái, nói trong hoàn cảnh nào cũng được. Nó cũng giống như cái thời chúng tôi mang văn nghị luận đi thi đại học vậy Ông thầy giáo già rất thực dụng của chúng tôi đã dạy cho một bài võ: “Cứ “tủ” mấy câu của ông “ốp” bà “ép”, trích dẫn đại ra, thế nào cũng ăn điểm”. Và thế là bất cứ bài văn nào chúng tôi cũng có thể “phang” hàng loạt các câu chẳng chết ai đại loại như “Văn học là nhân học” cốt để chua thêm cụ “M.Gorki” hay một cụ nào đó ở dưới. Thế là “ăn điểm” rồi.

Nhân bàn chuyện trích dẫn, tôi cũng xin tự “đá” mình một cái bằng cách trích dẫn cụ Cervantes trong tác phẩm Đônkihôtê. Trong phần giáo đầu dài dòng để bước vào thiên tiểu thuyết này, tác giả đã kể rằng, ông rất lo vì để tăng giá trị của cuốn truyện, tăng vẻ hàn lâm, kinh điển thường phải trích dẫn, phụ chú, tham khảo mà ông thì không biết lấy đâu ra. Sau cùng có một anh bạn khuyên “Chỉ cần đưa mấy câu Latin mà anh đã thuộc lòng, hoặc nếu không, chỉ cần bỏ chút ít công sức ra tìm. Ví dụ, khi nói đến tự do và sự giam cầm, hãy đưa câu Latin này vào “Ngàn vàng không mua nổi tự do” rồi ghi ở lề trang tên của Oracio, hay tên người nào đó đã nói câu ấy. Nếu nói về tình bạn, tình yêu hãy lấy ngay câu trong Kinh thánh: “Ta khuyên các ngươi hãy yêu mến kẻ thù của mình”. Về sự tráo trở của con người có câu của Catone: “Giàu sang nhiều lắm bạ bè” … Với những câu Latin đó hoặc những câu tương tự, anh sẽ được coi là một nhà thông thái, mà trên đời này, điều đó mang lại cho anh xiết bao là vinh dự và sự “sang trọng” đấy!”

Nguồn:
FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Những ngộ nhận danh xưng tốn kém

    25/08/2005Nguyễn Văn TuấnTrong vòng vài năm trở lại đây, có nhiều nhà khoa học hoặc được kết nạp vào New York Academy of Science (Viện hàn lâm khoa học New York), hoặc đề cử có tên trong các từ điển danh nhân loại “Who is Who”. Cố nhiên các nhà khoa học này có ít nhiều đóng góp quan trọng cho khoa học, nhưng việc họ có tên trong các từ điển danh nhân hay được phong tặng những danh hiệu to lớn như thế có thực sự là một vinh dự, hay phản ánh tầm cỡ vĩ đại của nhà khoa học, hay là nạn nhân của những chiêu thức tiếp thị tinh vi của các công ti chuyên kinh doanh tiểu sử? Đây là một vấn đề cần xem lại cẩn thận. Trong bài viết này, tôi sẽ trình bày một số thông tin liên quan để bạn đọc lượng xét.
  • Chẳng giống chút nào...!

    24/08/2005Quỳnh ChiSố là tôi công tác ở một Tạp chí khoa học, địa chỉ đỏ của các vị tiến sĩ tương lai. Một phần công việc của tôi là tiếp xúc với các vị giáo sư, tiến sĩ khả kính, nhận bài khoa học để đăng kiếm điểm phục vụ cho việc bảo vệ luận án của các vị tiến sĩ tiềm năng...
  • Chưa có văn hoá khoa học

    17/06/2005Bùi Mộng HùngTây cũng như Đông, đều tìm hiểu thiên nhiên, tìm hiểu con người. Ngày nay tinh thần khoa học rất nghiêm ngặt trong tiêu chuẩn của cái biết. Thâm tâm một số “tri thức” và “học giả” Việt Nam trong cũng như ngoài nước, không khỏi cho rằng ta, Đông phương đã biết cả rồi...
  • “Bê tráp theo thầy” và làm khoa học “dỏm”!

    11/11/2003Xưa nay, chuyện học trò tự hào vì được theo học thầy giỏi, thầy tự hào vì đào tạo được học trò tài cao cũng là chuyện thường tình. Nhưng dẫu sao thì không phải học trò yêu nào cũng được thầy trao cho “ấn tín” để có thể nối nghiệp.
  • Lòng ganh tị của các nhà khoa học

    11/11/2003Cao Xuân HạoLòng ganh tị của một nhà khoa học Đức đối với một bạn đồng nghiệp được thể hiện bằng cách bỏ ra 5 năm học hết lý thuyết của người ấy và bỏ thêm 5 năm nữa để nâng lên thành một lý thuyết cao hơn. Lòng ganh tị của một nhà khoa học Việt Nam đối với bạn đồng nghiệp được thể hiện bằng việc tìm cách chuyển sang ngạch hành chính tổ chức để ngăn chặn việc công bố và ứng dụng lý thuyết của hắn ta.