Tự do học thuật: Sinh lộ của một nền văn minh

07:21 SA @ Thứ Bảy - 26 Tháng Giêng, 2019

Hình tượng "học giả", như ta đã biết, được Kant sử dụng nhiều lần trong luận văn nổi tiếng "Khai minh là gì?" để nói đến việc sử dụng lý trí một cách công khai trong đời sống xã hội. Viên chức phải tuân lệnh trong công việc, xét từ vai trò xã hội nhất định. Nhưng đồng thời, "với tư cách học giả", họ còn có quyền công khai sử dụng ngòi bút, xét từ quan điểm công dân thế giới. Đó là cách nói khác về "tư cách người trí thức" theo nghĩa rộng, chỉ những ai được thụ hưởng nền giáo dục đại học và "có năng lực diễn đạt ý kiến dưới hình thức văn bản". Vì thế, môi trường đại học là nơi thể hiện quyền tự do này một cách tập trung và đậm đặc nhất.

Với quan niệm ấy, Kant mở một chương mới cho tinh thần đại học hiện đại, sẽ được định chế hóa chỉ hơn một thập kỷ sau đó: sự ra đời của mô hình đại học Humbold (1810). Tuy nhiên, "tự do học thuật" ở phương Tây không phải là chuyện tình cờ, trái lại, có lịch sử rất lâu dài. Tuy trải qua nhiều thăng trầm, nó là một dòng chảy bất tận và bất diệt, như một cuộc đua tiếp sức. Những cá nhân kiệt xuất tiếp nối nhau mang ngọn lửa thiêng, soi đường sinh lộ cho cả một nền văn minh.

TỪ "TỰ DO TRƯỜNG PHÁI" ...

Với sự du nhập Kitô giáo như là tôn giáo chính thống vào các thế kỷ đầu công nguyên, phương Tây đứng trước thử thách chưa từng có trước sự xung đột giữa hai truyền thống lớn: truyền thống nhân bản, thế tục của Hy-La cổ đại và truyền thống tín ngưỡng siêu nhiên Do thái-Kitô giáo. Nhiều tín điều cơ bản có vẻ đi ngược, nếu không muốn nói là vượt khỏi trực quan và lý trí thông thường (sáng thế từ hư vô, Đức Mẹ đồng trinh, tam vị nhất thể v.v…), đòi phải được lý giải hợp tình hợp lý, thỏa mãn trí óc và con tim. Sớm nhìn nhận nhu cầu điều hòa ấy, và hơn thế, chấp nhận giải quyết nó một cách sòng phẳng là dấu son đầu tiên. Thế là, bên cạnh các tu viện, nhiều định chế học thuật độc lập ra đời. Ta không khỏi kinh ngạc nếu theo dõi kỹ chất lượng và cung cách tranh luận của thời kỳ này. Nhưng, được như vậy là nhờ đặc điểm chủ yếu của "tự do trường phái" (libertas scholastica) suốt thời trung cổ từ thế kỷ 12-15: đó là đặc quyền tự quản mang tính hiệp hội nghề nghiệp, gồm quyền thành lập, kết nạp và khai trừ thành viên, cũng như tự do bầu chọn người đại diện. Những quyền tự do này được bảo trợ bởi Giáo hoàng, và sau đó là bởi các ông vua. Sự thống nhất giữa chính trị và tôn giáo tất nhiên chưa mang lại những quyền tự do học thuật theo nghĩa ngày nay. Nhưng, các đại học không cảm thấy mình mất tự do, bởi chính chúng góp phần định hình sự thống nhất ấy.

... ĐẾN "TỰ DO KHOA HỌC"

Từ thế kỷ 17, bắt đầu cất lên nhiều tiếng nói đòi tự do tư tưởng, tiền thân của tự do khoa học ngày nay. Các tác giả như Spinoza, Putendorf, Collins hay Gundling đòi hỏi "tự do triết học" (libertas philosophandi), thoát khỏi sự khống chế của thần học, việc định chế hóa đầu tiên theo hướng này là đại học cải cách ở Halle (Đức) năm 1694. Tiếp theo, tự do nghiên cứu và giảng dạy trong tinh thần khai minh của thế kỷ Ánh sáng có cơ sở pháp lý vững chắc trong điều lệ của phân khoa triết, đại học Göttingen (Đức) năm 1737.

Trong "văn hóa sinh viên", nền tự do học thuật dành nhiều đặc quyền hợp pháp cho đời sống của sinh viên chính thức: ăn mặc tùy thích, để râu đủ kiểu, kể cả ăn chơi, đập phá, vượt khỏi các quy tắc luân lý thông thường! "Ôi, thời vàng son của đời sinh viên: tự do, tự do, tất cả là tự do!", một từ điển ghi nhận với nhiều tiếc nuối vào năm 1749.

Một cao điểm mới của khái niệm tự do trong sinh viên là thời kỳ Đại Cách mạng Pháp (1789). Lần đầu tiên có sự pha trộn, rồi hòa quyện giữa ý thức đặc quyền của tầng lớp ưu tú với ý thức tự do chính trị của quảng đại quần chúng cách mạng. Một ngọn lửa khai phóng bùng lên năm 1798 với tác phẩm cuối đời của Immanuel Kant: "Sự tranh chấp giữa các chuyên khoa".

NHƯ CÁI THANG CẦN HAI THANH CHỐNG

Vào thời Kant, đại học gồm ba chuyên khoa trụ cột: thần học, luật học và y học. Thần học lo chuyện "hạnh phúc vĩnh hằng" của kiếp người; luật học lo chuyện hạnh phúc dân sự của mọi thành viên xã hội; và y học lo hạnh phúc thể xác của mỗi người. Được gọi là ba chuyên khoa "cao cấp", vì được nhà nước bảo trợ và quản lý, dựa vào ba văn bản "thiên kinh địa nghĩa": Kinh thánh, Bộ luật quốc gia và Bộ Điều lệnh y học. Chính thống hóa ba bộ môn này, nhà nước thực thi quyền lực của mình.

Ở phía ngược lại là các chuyên khoa "cấp thấp" (!), trong ngôn ngữ của Kant, là "chuyên khoa triết học". Chuyên khoa này không thu hẹp trong môn triết theo nghĩa đen, mà bao gồm cả văn chương, khoa học và kinh tế. Chúng độc lập với lợi ích của nhà nước, mà chỉ dựa vào lý tính của con người. Chúng không nhất thiết đối lập với quyền lực nhà nước, trái lại, là phi quyền lực, một tiền thân sáng giá của quan niệm về tổ chức xã hội dân sự ngày nay. Chúng có bản tính khác với quyền lực, vì luôn thách thức "những ranh giới của quyền lực từ bên trong" (Derrida). Là bộ phận của đại học, nhưng chuyên khoa này bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống hàn lâm nhờ vào quyền sử dụng lý tính phê phán một cách công khai và vô điều kiện. Giữ một chỗ, đồng thời không giữ chỗ nào trong hệ thống đại học là nghịch lý đầy sức sống cho bản thân đại học.

Sự "tranh chấp giữa các chuyên khoa" không phải là xung đột kiểu chiến tranh mà là hợp pháp. Nếu các chuyên khoa "cao cấp" giữ cánh phải của chiếc thang tri thức để củng cố hệ thống, thì chuyên khoa "triết học" giữ cánh trái của chiếc thang như là trách vụ phản biện. Khi lý tính đưa ra phán đoán công khai, nó giữ cho chiếc thang vững chắc, an toàn. Có chiếc thang nào chỉ có đơn độc một thanh chắn? Chỗ độc đáo của Kant: chuyên khoa triết học không vỗ ngực sẽ mang lại chân lý. Nó chỉ yêu chân lý và, quan trọng hơn, tạo nên "điều kiện khả thể" cho việc đi tìm chân lý. Xin nghe Kant nói: "Trong đại học phải có một chuyên khoa giảng dạy độc lập với mệnh lệnh của nhà nước. Nó không ra lệnh, nhưng có quyền tự do phán đoán về tất cả những gì liên quan đến mối quan tâm khoa học là đi tìm chân lý".

Quả là một con đường dài và gian khổ từ cái chết của Socrates, từ tự do trường phái thời trung cổ đến tự do học thuật ngày nay, để nó được trịnh trọng ghi vào hiến pháp của các nước văn minh (chẳng hạn, đó là điều 5 trong Luật cơ bản của CHLB Đức).

Chiếc thang đã được bắt, và các thế hệ sau Kant sẽ tiếp tục leo lên từng nấc một. Không ít gian nan, nhưng dù sao đã có chỗ đặt chân. Đại học Humboldt - chỉ hơn một thập kỷ sau - như vừa nói, là thành tựu rực rỡ từ một lời di chúc..

(Bài đã đăng Người Đô Thị, Bộ mới, số 23, 03.07.2014. Bản tác giả gửi VHNA)

FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Giáo dục khai phóng, con đường xa ngái…

    13/08/2015Minh Nguyễn thực hiệnMột nền giáo dục khai phóng, là mở ra những chân trời rộng lớn, ở đó con người tự do, tự chủ. Đó là mục đích của một nền giáo dục đích thực, bất cứ thời nào và nơi nào. Đất nước có thể “rũ bùn đứng dậy sáng loà”, “sánh vai với cường quốc năm châu” được không, nếu thiếu điều đó? Nhưng hiện nay và ở ta con đường đi đến nền giáo dục khai phóng còn xa ngái!
  • Khai phá và hoàn thiện con người tự do

    16/01/2019Thư Hiên (thực hiện)GS Hoàng Tụy cho rằng, sau hàng thập niên đi lạc hướng, giờ đây giáo dục Việt Nam đã có dấu hiệu tìm được đúng đường. Mục tiêu tổng quát của Đề án Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, “giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân”, là một minh chứng rõ nét...
  • Cần có anh hùng?

    10/06/2016Bùi Văn Nam Sơn“Đối với người hoạt động tinh thần, lòng say mê chân lý là lòng say mê mạnh mẽ nhất (…) Thế nhưng, hãy thử hình dung cảnh tượng một vị lão trượng đáng kính, lừng danh vì suốt đời đã hiến mình cho việc duy nhất là nghiên cứu tự nhiên, phải quỳ gối thề bỏ những bằng chứng của chính lương tâm mình về chân lý mà mình đã chứng minh một cách thuyết phục” .
  • Thấy gì từ một số mô hình giáo dục tiên tiến?

    11/10/2015Itamar Rabinovic - Thanh Trà (lược dịch từ American Interest)Trong khi người Mỹ coi những tranh cãi trong giáo dục như một mớ bòng bong, người nước khác lại thấy đó là biểu hiện của sức sống và sự lành mạnh. Như vậy, quan điểm của bạn phụ thuộc vào địa điểm mà cái nhìn của bạn.
  • Con người tự do là đích đến của giáo dục

    22/09/2015Lê Ngọc Sơn thực hiệnTuy nhiên, nếu bắt buộc phải gọi tên một khủng hoảng thế hệ, thì có lẽ đó là việc phần lớn người trẻ đã để mặc đời sống vật chất cuốn đi mà không nhận ra đang có khủng hoảng về các giá trị tinh thần. Nói một cách khó nhọc và tù mù kiểu truyền thống thì đó là cuộc khủng hoảng không có khủng hoảng. Tức là anh bình chân như vại, vô cảm với các giá trị tinh thần.
  • 'Con người tự do' là đích đến của giáo dục

    15/06/2015Chi Mai thực hiệnMở trường trên mạng, TS Giáp Văn Dương theo đuổi triết lý "trên một mệnh đề duy nhất: Con người tự do là đích đến của giáo dục"...
  • Con người tự do vẫn là ý niệm xa lạ

    03/06/2015Hải Tâm (thực hiện)Quả thật là giới trẻ Việt Nam rất thiệt thòi khi ý niệm về con người tự do vẫn là một điều xa lạ, và xa xỉ, trong xã hội. Cái được nói đến thường xuyên hơn là trách nhiệm công dân.
  • Biết rung cảm trước cái đẹp sẽ rất khó làm điều xấu

    16/07/2014Thượng TùngKhông có nhà trường nào dạy học trò hư hỏng. Tuy nhiên, thực trạng này cũng có một phần trách nhiệm của nhà trường. Các môn học, trước hết là môn văn kích thích chưa hết phần nhạy cảm và tốt đẹp trong tâm hồn các em. Cũng như âm nhạc, hội hoạ,… văn học tác động rất mạnh vào phần hồn của học trò. Những em biết rung cảm trước cái đẹp sẽ rất khó làm điều xấu...
  • Câu chuyện của niềm tin

    22/01/2014Giáp Văn DươngKhông có trung thực thì không có niềm tin. Không có niềm tin thì thời gian và nguồn lực sẽ chỉ dành cho việc nghi ngờ, đề phòng lẫn nhau. Mà như vậy thì nghèo hèn, tụt hậu sẽ là điều tất yếu!
  • "Nên tạo môi trường tự do học thuật….”

    26/08/2013Lâm Tuyền thực hiệnTôi rất thích câu châm ngôn của người Ấn Độ: “Thà đốt một que diêm còn hơn là ngồi yên nguyền rủa bóng tối”. Góp sức vào đổi mới giáo dục bằng những việc có thể là nhỏ,  nhưng thiết thực...
  • Đất đai, giáo dục và tự do

    14/12/2012Phạm Hồng SơnNăm 1215 tại Anh quốc một nhóm chủ đất đã hợp nhau lại bắt vua phải cam
    kết tôn trọng một số quyền tự do của họ, trong đó, đương nhiên, có quyền
    định đoạt, sở hữu về đất và các lợi tức từ đất. Cam kết đó có cái tên
    Latin rất nổi tiếng: Magna Carta (Đại Hiến chương 1215). Tinh thần tự do
    cho đất, độc lập với kẻ cầm quyền của Magna Carta, dù phải trải qua rất
    nhiều thử thách, đã được duy trì và bảo tồn cho tới tận ngày nay...
  • Minh triết và hạ tầng tư duy

    17/12/2010Giáp Văn DươngMuốn phát triển, phải xây dựng được một hạ tầng tư duy vững chắc, phong phú và thông thoáng, để từ đó, tạo ra những sản phẩm tư duy có giá trị. Minh triết, với vai trò như một phông nền văn hóa, có mặt trong nhiều thành phần trong cấu trúc của hạ tầng tư duy. Vì thế, việc tìm hiểu mối quan hệ giữa minh triết và hạ tầng tư duy có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện hạ tầng tư duy, tạo điều kiện cho việc giải phóng tư duy, hình thành những tư tưởng mới, sáng tạo và có giá trị cho đất nước.
  • Phải chăng đây là thế kỷ của giáo dục đại học Châu Á?

    20/05/2010Philip G. AltbachKết quả xếp hạng đại học năm 2009 cho thấy mức độ gia tăng rất khiêm tốn trong con số những trường đại học châu Á lọt vào danh sách 100 trường hàng đầu—trong Bảng Xếp hạng Đại học Thượng Hải, con số này từ 5 lên 6, và trong Bảng Xếp hạng của Thời báo Times, là từ 14 lên 16. Các nhà bình luận lập tức liên hệ tới sự trỗi dậy về mặt khoa học và đào tạo ở châu Á và đồng thời là sự suy tàn của phương Tây. Tuy nhiên...
  • Harvard bàn về khủng hoảng giáo dục đại học VN

    21/09/2009Đại AnTuần Việt Nam xin giới thiệu nội dung cơ bản của bản báo cáo trong khuôn khổ Asia Programs của Trường lãnh đạo Kennedy thuộc ĐH Harvard, do hai tác giả Thomas J. Vallely và Ben Wilkinson thực hiện với tựa đề: Giáo dục đại học - cao đẳng Việt Nam: Khủng hoảng và đối phó.
  • Bùi Văn Nam Sơn: Kẻ lữ hành theo chân các triết gia

    23/07/2009Hải Miên thực hiện“Đối với nước ta, công cuộc tu thư ngày càng bức thiết để nhanh chóng lấp khoảng trống về học thuật, bù lại những quãng thời gian và cơ hội đã bị bỏ lỡ, nhằm tiếp cận một cách toàn diện hơn, chính xác hơn các trào lưu tư tưởng và thành tựu khoa học trên thế giới. Việc dịch sách kinh điển là con đường ngắn nhất trong việc tiếp phát văn hóa”.
  • xem toàn bộ