Triết lý hành động Hồ Chí Minh
Trong lịch sử ta thấy có nhiều triết lý tách rời khỏi hành động, nói không đi đôi với làm, lý luận xa rời cuộc sống. Triết lý không gắn với hành động là triết lý để mà triết lý, triết lý tư biện, kinh viện, sách vở, xa rời, tách rời cuộc sống, chẳng hạn như triết lý của một số nhà tư tưởng Tây- Âu thời trung cổ nhằm phục vụ cho mục đích của thần học và tôn giáo, triết lý tư biện theo kiểu trò chơi của những khái niệm (chơi chữ), triết lý của một số nhà không tưởng... Học thuyết của họ đẹp thì có đẹp, hay thì có hay, nhưng không gắn với hoạt động, hành động thực tiễn mà đôi khi chúng trở thành trò chơi của lý trí, trí tuệ thuần tuý. Ngay giai cấp tư sản hô hào, giương cao triết lý về tự do, bình đẳng, bác ái, nhưng sau khi đánh đổ giai cấp phong kiến thì nó lại phớt lờ triết lý mà nó nêu lên ban đầu. Nói thì hay nhưng về sau không thực hiện là vì quyền lợi ích kỷ của nó. Lý luận của các nhà triết học trước Mác chủ yếu chỉ là giải thích, lý giải thế giới chứ không gắn liền với nhiệm vụ cải tạo cải biến thế giới. Chính vì vậy, sự xuất hiện của triết học Mác đã tạo ra một cuộc cách mạng trong triết học vì nó không chỉ giải thích mà còn cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn của con người.
Triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa những tinh hoa của triết học Đông Tây kim cổ mà còn kế thừa những điểm tinh tuý của triết học Mác- Lênin và đưa triết lý hành động lên tầm cao mới trong đó triết lý và hành động, nói và làm, lý luận và thực tiễn không tách rời nhau, tạo nên một khối thống nhất. Điều này thể hiện rõ khi Người cho rằng lý luận phải liên hệ với thực tế, học phải đi đôi với hành. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng bởi lẽ khi đó thực tiễn không biết
Phương châm của Người là độc thư bất vong cứu quốc, cứu quốc bất vong độc thư, nghĩa là đọc sách không quên cứu nước, đọc sách không chỉ nâng cao tầm hiểu biết, rèn luyện trí tuệ mà phải hướng đến cứu nước cứu người, cứu nước không quên đọc sách, tức cứu nước không quên nâng cao trí tuệ. Qua đây ta thấy người cách mạng và người trí thức hòa quyện vào nhau, trong người cách mạng có người trí thức, trong người trí thức có người cách mạng, người cách mạng phải có trí tuệ, còn người trí thức phải phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, người trí thức của nhân dân.
Triết lý
Ý nghĩa nhân sinh sâu xa của triết lý này là ở chỗ trong cuộc sống nên nắm giữ cái lớn lao, đừng có sa vào những cái lặt vặt nhất thời, nên đứng ở chết (cái bất biến) mà quan sát, từ đó dung hòa, quân bình vạn vật. Những bậc thánh nhân luôn đứng ở cái bất biến mà quan sát cái vạn biến, dùng bất biến ứng phó với vạn biến, do đó mà thánh nhân trường cửu (bất biến). Không nắm được cái bất biến mà suốt đời cứ chạy theo cái vạn biến thì cả đời mỏi mệt. Nói cụ thể, trong cuộc đời mỗi người nên nhìn ra cái lớn, chứ đừng nên sa vào những cái vụn vặt, tầm thường, nói theo Vedanta, phải nhận ra đâu là bản thể trong cái hiện tượng, đâu là cái vĩnh hằng trong cái tạm thời, đâu là cái không thay đổi trong cái thay đổi, đâu là cái toàn thể trong cái cục bộ, đâu là cái bất biến trong cái vạn biến...
Vậy, cái bất biến ở
Triết lý "Dĩ bất biến ứng vạn biến" có nghĩa là lấy cái bất biến (cái không thay đổi) ứng phó với cái vạn biến, ứng phó với cái vạn biến nhưng không xa rời, vứt bỏ, đánh mất cái bất biến. Hoàn cảnh luôn thay đổi, cuộc sống cũng như sự nghiệp cách mạng luôn phát triển, bởi vậy, sách lược trong từng lĩnh vực cụ thể cũng phải mền dẻo, uyển chuyển (cái vạn biến). Nhưng dù có mền dẻo, uyển chuyển như thế nào đi chăng nữa cũng không được quyên mục đích cuối cùng (cái bất biến), bởi nếu không sẽ dễ bị lạc vào cái mê cung, rừng rậm của vạn biến, cái vụn vặt mà không thấy đường ra.
Triết lý "Dĩ bất biến ứng vạn biến" đồng thời cũng là triết lý hành động, gắn với hành động bởi lẽ vì cái bất biến đó mà Người rời bỏ quê hương ra đi tìm đường cứu nước lúc Người mới 21 tuổi, và cũng chính vì cái bất biến đó mà Người đã hy sinh cả cuộc đời mình cho dân tộc, đặt lợi ích của dân, của nước lên trên hết, suốt đời hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Mỗi triết lý hành động đồng thời cũng là một triết lý sống, qui định một phong cách sống tương ứng. Triết lý hành động "Dĩ bất biến ứng vạn biến" đồng thời cũng là triết lý sống "Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm" (Lấy tâm của mọi người làm tâm của mình). Để đi sâu vào triết lý sống này ta hãy xem tâm, lòng mong muốn của người dân Việt Nam khi đó là gì? Đó là nước được độc lập, dân được tự do, mọi người được hạnh phúc. Bác đã lấy cái tâm (mong muốn) của mọi người làm cái tâm (mong muốn) của mình khi Người viết: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Bác đã lấy tâm của mọi người làm tâm của mình bằng những hoạt động thiết thực, cụ thể như ra đi tìm đường cứu nước và khi đã tìm được cái "cẩm nang" thì trở về nước thức tỉnh nhân dân, tổ chức, đoàn kết, huấn luyện họ, đưa họ ra tranh giành tự do, độc lập. Đến độ chín muồi, Người đã tiến hành thành lập Đảng, đề ra chiến lược, sách lược cách mạng cho từng thời kỳ, kêu gọi toàn dân đoàn kết, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước... từ đó đã dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Với triết lý sống "Đĩ chúng tâm vi kỷ tâm" đã khiến cho Bác và. Đảng ta ngoài lợi ích của nhân dân không còn lợi ích nào khác. Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ đau là một ngày Bác ăn không ngon, ngủ không yên. Với triết lý sống "Đĩ chúng tâm vi kỷ tâm" tất yếu sẽ dẫn đến phong cách sống "Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", lối sống vì mọi người, hòa đồng cùng xã hội, thậm chí cả thiên nhiên cây cỏ, lốisống không cho riêng mình, và chính vì không cho riêng mình cho nên trường cửu.
Với triết lý hành động, triết lý sống như vậy, nên Người thường viết ít, nếu có viết thì ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ đề thực hiện, để làm, tức viết không phải để mà viết, nói không phải để mà nói, viết, nói để thức tỉnh và từ đó đứng lên làm cách mạng. Có người cho rằng khi viết cần phải trau truốt. Ngay trong "Đường cách mạng", phương châm, chủ trương của Bác là phải kêu to, làm chóng để cứu lấy giống nòi, thì giờ đâu mà vẽ vời trau truốt ở đây làmta nhớ đến câu chuyện người đi đường bị bắn bởi một mũi tên thuốc độc thì việc đầu tiên là phải rút mũi tên ra để chạy chữa chứ không phải đứng đó triết lý về tại sao mình bị bắn. Dân tộc ta khi đó cũng vậy, nước bị mất, giống nòi có nguy cơ diệt vong, vì vậy không thể đứng đó triết lý về nguy cơ diệt vong của dân tộc, mà phải kêu to làm chóng để cứu lấy giống nòi.
Ở Hồ Chí Minh không chỉ triết lý gắn với hành động, đi liền với hành động mà ngược lại, ngay hành động cũng thể hiện triết lý. Theo GS Trần Văn Giàu, hoạt động thực tiễn, hành động biểu hiện tư tưởng trung thành hơn gấp nhiều lần những bài văn được ngòi bút đẽo gọt. Cái đánh giá đúng sai của tư tưởng không phải nằm trong tư tưởng mà phải ở trong hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là cái duy nhất kiểm tra tính đúng đắn của tư tưởng, là tiêu chuẩn của chân lý.Thực tiễn được tổng kết biến thành lý luận, tư tưởng. Như vậy, hoạt động thực tiễn nói lên tư tưởng. Từ trước đến nay chúng ta quen cái lối nghiên cứu triết học, nghiên cứu tư tưởng qua câu chữ. Ngay đi theo hướng này cũng còn nhiều cái phải bàn, chẳng hạn có người chỉ dừng lại ở câu chữ bề ngoài mà chưa đi vào cái thần, cái hồn nằm sau các câu chữ. Theo Trang Tử, người ta dùng lời để đạt ý, được ý rồi hãy quên lời. Mặt khác, tư tưởng, triết lý theo tôi, đâu chỉ thể hiện qua câu chữ. Những nhà hiền triết phương Đông thường ít viết, ừ nói, nếu chỉ qua câu chữ của họ mà nói lên tư tưởng của họ thì e rằng không đầy đủ. Bởi vậy, triết lý, tư tưởng còn được biểu hiện, thể hiện qua nhiều hình thức khác như âm nhạc, hội họa, điêu khắc, qua hành động, hoạt động, hành vi, thái độ, cử chỉ, cách đối nhân xử thế của con người. Chúng ta cần giải mã, phát hiện đằng sau những di sản văn hóa vật chất và tinh thần, người xưa muốn gởigắm những thông tin tư tưởng gì cho thế hệ mai sau, đặc biệt là những ý tưởng triết học. Chẳng hạn đằng sau ngôi chùa Một cột đứng sừng sững không lời, ông cha ta muốn gửi gắm cho thế hệ mai sau một triết lý vô cùng độc đáo:
“ Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
Ngôi chùa tượng trưng cho bông sen mọc lên từ hồ ao, từ bùn lầy nhưng lại không bị mùi bùn hôi tanh làm cho nhơ bẩn. Bông sen tượng trưng cho cái tuyệt đối, ao hồ, bùn lầy tượng trưng cho cái tương đối. Như vậy cái tuyệt đối nằm trong cái tương đối, cái tương đối bao chứa cái tuyệt đối. Khi đã đạt đến cái tuyệt đối thì có thể ung dung tự tại sống trong cái tương đối mà không bị cái tương đối níu kéo, chi phối.
Phương hướng này có vị thế vô cùng quan trọng trong việc nghiên cứu tư tưởng
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu MaiToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường