Triết học nghệ thuật của Schelling
Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và phân tích quá trình hình thành và phát triểntư tưởng của Schelling về nghệ thuật qua các giai đoạn: triết học tự nhiên, triết học tiên nghiệm, triết họcđồng nhất, triết học tựdo và mặc khải. Trênbình diện triết học nghệ thuật, Schelling không chỉlà một mắt xích, một vòngkhâu trong tiên trình phát triển của triết họccổ điển Đức, mà còn là sự tiếpnối, sự vượt qua Cantơ, Phíchtơ và là một trong những tiềnđề xuất phát của mỹ học Hêgen.Với nhữngđóng gópđó Schellingđã trở thành một trong những nhà lậpluận của chủ nghĩa lãng mạn Đức. Trong bài viết này, tác giả cũngđã đưa ra những đánh giá về hạn chế vàđóng góp của Schelling từ lập trường mỹ học macxít.
Sự phát triển tư tưởng triết học của Schelling là một quá trình lâu dài và phức tạp. Trong quá trình suy ngẫm triết học của ông, chúng ta thấy nổi lên ba khái niệm vô cùng quan trọng: tự nhiên, đồng nhất và mặc khải. Ba khái niệm cơ bản ấy đã được cụ thể hóa trong các công trình cơ bản của ông như triết học tự nhiên (từ giữa những năm 90 của thế kỷ XVIII), chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm (1800 - 1801), triết học đồng nhất (trước 1840), triết học tự do (trước 1813) và cuối đời là triết học mặc khải.
Chủ nghĩa lãng mạn nảy sinh và phát triển vào thời kỳ lịch sử giữa cách mạng Pháp năm 1789 và cách mạng dân chủ tư sản châu Âu năm 1844. Chủ nghĩa lãng mạn là một bước ngoặt trong lịch sử văn hóa, nghệ thuật và tư tưởng thẩm mỹ của
1) Nghệ thuật là một giá trị cao quý nhất,
2) Người nghệ sỹ là thiên tài, là một kiểu mẫu cao cả. Đó cũng chính là sự tôn sùng nghệ thuật, tôn sùng tự nhiên và tôn sùng cá tính sáng tạo.
Những vấn đề này ít nhiều đã được Schelling đề cập đến qua các tác phẩm đã nói ở trên trong quá trình tìm kiếm, xây dựng và phát triển lý luận mỹ học của mình.
Đối với các nhà lãng mạn, nghệ thuật là hình thái hoạt động tinh thần cao nhất, vượt lên trước cả giác tính và lý tính. Nôvalisơ đã tuyên bố rằng, thi ca là nữ thần của triết học rằng, triết học là lý luận về thi ca. Hơn nữa, ông còn khẳng định rằng, trong tương lai không xa, mọi người sẽ chỉ đọc các tác phẩm nghệ thuật. Nhà thơ thấu hiểu tự nhiên hơn các nhà khoa học, vì thi ca trực tiếp bắt nguồn từ tự nhiên. Tự nhiên không bao giờ cạn, nó vô cùng vô tận, phong phú hơn, phức tạp hơn tất cả những cái mà khoa học đã biết về nó. Bởi thế, nhà thơ - nhà lãng mạn nói về tự nhiên có một cái gì đó lớn hơn so với người bình thường. Nhà thơ sùng kính và ngưỡng mộ cái siêu nhiên thần bí và chưa được biết trong tự nhiên. Tài năng và cá tính sáng tạo của người nghệ sỹ là sức mạnh vừa tự nhiên, vừa siêu nhiên và thần bí. Nghệ sỹ là công cụ vô ý thức của lực lượng cao cả. Nghệ sỹ thuộc về tác phẩm của mình, nhưng tác phẩm lại không thuộc về anh ta.
Schelling đã tiếp nhận và bổ sung, phát triển cả ba luận điểm ấy với những suy ngẫm riêng trong hệ thống mỹ học củamình. Tư tưởng thẩm mỹ của Schelling đã được trình bày và phát triển ở "Hệ thống chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm về mối quan hệ của nghệ thuật tạo hình với tự nhiên", đặc biệt là trong "Triết học nghệ thuật" và được coi là cơ sở thế giới quan của các nhà lãng mạn Đức. Schelling đã trở thành lãnh tụ tư tưởng của chủ nghĩa lãng mạn Đức ở thời kỳ đầu, rồi đến lượt mình, chính các đại biểu của chủ nghĩa lãng mạn Đức lại có nhiều ảnh hưởng tới ông.
Trong "Hệ thống chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm", Schelling đã xem xét những vấn để mỹ học gắn với việc xây dựng hệ thống triết học của mình. Ông tìm kiếm một khả năng nhận thức mà ở đó, dường như những mặt đối lập của nhận thức, những mâu thuẫn giữa chủ thể và khách thể, tự do và tất yếu đều được cởi bỏ với tư cách khái niệm xuất phát của hệ thống này. Ông coi khái niệm "trực cảm lý trí" chính là khái niệm cần tìm kiếm. Sự phân hóa bất tận của chủ thể và khách thể, cái “Tôi" và cái không phải “Tôi" tạo nên đối tượng chủ yếu trong triết học và mỹ học của Phíchtơ đã được khắc phục ở Schelling trong lực cảm lý trí. Đối với Schelling, "trực cảm lý trí" đã trở thành công cụ chủ yếu để nhận thức triết học. Hơn nữa, thưởng ngoạn thẩm mỹ là hình thức cao nhất của "trực cảm lý trí". Thưởng ngoạn thẩm mỹ là khách quan, có giá trị
Để hiểu mỹ học của Shelling, không thể không nói đến diễn văn được đọc tại
Như vậy, người nghệ sỹ cần bắt chước không phải những hình thức của tự nhiên, mà là bản chất của tự nhiên - quá trình sáng tạo. Với quan niệm này, Schelling cho rằng, chúng ta cần phải thóat ra khỏi những giới hạn của chính hình thức này, để bằng sự thấu hiểu, lại một lần nữa, tìm thấy nó trong tính sống động và chân thật của nó.
Mỹ học của chủ nghĩa lãng mạn đã thể hiện một cách có hệ thống nhất trong triết học nghệ thuật" của Shelling. Song, công trình của Schelling không đơn giản là hệ thống hóa, sắp xếp lại những đoạn văn rời rạc được viết rải rác trong thời kỳ này, mà sâu xa hơn, là việc xây dựng mỹ học với tư cách triết học. Cống hiến chủ yếu của ông trong tác phẩm này là ở chỗ, lần đầu tiên, cái nhìn biện chứng xuyên qua toàn bộ thế giới nghệ thuật, qua lịch sử và hình thái của nó từ cấp độ quan niệm
Nếu trong "Hệ thống chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm", Schelling mới chỉ đề cập đến mỹ học trong sự gắn bó với các vấn đề
Thật vậy, nghệ thuật luôn có một vị thếtinh thần lớn lao, nhưng điều đó không có nghĩa rằng sự vô trật tự, hỗn loạn của nghệ thuật có quyền thống trị trong đầu của nhà triết học. Triết học là khoa học, nhưng cũng là phi khoa học. Với tư cách là phi khoa học, triết học hướng tới sự chiêm nghiệm và tưởng tượng. Với tư cách là khoa học, nó đòi hỏi phải có hệ thống. Nếu phương pháp kiến tạo, cơ cấu hệ thống đã tỏ ra thích hợp trong triết học tự nhiên thì giờ đây Schelling lại muốn tiếp tục áp dụng nó vào triết học nghệ thuật. Phương pháp kiến tạo của ông đối lập với sự nghiên cứu "bác học" về lịch sử thẩm mỹ - cái được xây dựng trên cơ sở của các sự kiện và nghiên cứu kinh nghiệm. Mục đích của triết học nghệ thuật không chỉ dừng lại ở nghiên cứu nghệ thuật mà là kiến tạo nghệ thuật, nghĩa là lấy toàn bộ các hiện tượng và những đặc trưng của nó từ khái niệm "cái tuyệt đối”. Định nghĩa khái niệm là chỉ ra vị trí của nó trong hệ thống vũ trụ. "Kiến tạo nghệ thuật là xác định vị trí của nó trong vũ trụ. Xác định vị trí này là cách định nghĩa duy nhất của nghệ thuật...".
Từ quan điểm hệ thống của Schelling thì thế giới là một chỉnh thể được phân ra thành hai mảng đối lập nhau: thế giới lý tưởng và thế giới hiện thực (tự nhiên). Sự thống nhất giữa lý tưởng và hiện thực là cái xuyên suất toàn bộ thế giới. Song chỉ ở trong thế giới lý tưởng, ưu thế trong sự thống nhất này mới thuộc về lý tưởng, còn trong thế giới hiện thực, trong tự nhiên, thì ưu thế của sự thống nhất lại thuộc về hiện thực. Nghệ thuật là sản phẩm cao nhất của thế giới lý tưởng, song nó lạihợp nhất, thống nhất thế giới lý tưởng này với thế giới hiện thực, bởi nó chính là sự khách thể hóa cái lý tưởng. Hơn nữa, các sản phẩm của sự khách thể hóa ấy là các tác phẩm nghệ thuật cũng giống như tự nhiên trong tính chỉnh thể của nó có sản phẩm cao nhất là cơ thể sống, cá thể sống. Nhưng nghệ thuật là cơ thể sống trong thế giới lý tưởng, bởi nó là sản phẩm họat động tinh thần của con người và đối với nó, con người cũng chỉ như là cái tinh thần. Đồng thời, nghệ thuật còn được khách thể hóa trong sự vật cảm tính. Xuất phát từ tính hai mặt này, Schelling đã xác định bản chất của nghệthuật trước hết là ở sự không phân biệt cái lý tưởng và cái hiện thực.
Lý giải nghệ thuật như là sự thể hiện đầy đủ và hoàn chỉnh nhất bản chất của thế giới và với hy vọng triết học nghệ thuật sẽ tạo nên tri thức tương ứng với đối tượng của nó, Schelling đã chuyển từ những đặc trưng nói chung của nghệ thuật sang những thuộc tính đặc thù của nó và đưa các phạm trù vào nghệ thuật trong tính chỉnh thể của nó. Còn hệ thống nghệ thuật được ông triển khai
Sau khi xem xét các hình thái lịch sử của nghệ thuật, Schelling tiếp tục nghiên cứu các hình thức của nó trên phương diện hình thái học. Ở phương diện này, ông cũng đã xem xét các hình thức riêng biệt, khi tính đến sự biến đổi và sự chế định lịch sử của chúng. Ở Shelling, phương diện lịch sử và phương diện hình thái học không kết dính vào nhau như ở Hêgen sau này, mà được đặt ra để đối chiếu, so sánh với nhau.
Schelling đã xem xét hình thái học nghệ thuật (các thể, loại, kiểu của nó) như một lĩnh vực của các hình thức thể hiện biểu tượng, hay ngôn ngữ biểu tượng, như sự phân hóa của một bản chất thống nhất. Toàn bộ sự đa dạng của các hình thức tạo nên một hệ chỉnh thể hữu cơ đang phát triển, một hệ thống mong muốn sử dụng toàn bộ những biến thể có khả năng của ngôn ngữ biểu tượng. Thể chế bên trong của "vũ trụ nghệ thuật" được sắp đặt để sao cho mỗi một hình thức đều có mặt đối lập đi kèm với nó, còn những mặt đối lập lại gắn bó với nhau một cách tương tự như thế ở bên trong. Như vậy, ở đây đã có sự thể hiện nguyên tắc tam đoạn luận biện chứng.
Hệ thống các hình thức được triển khai trước hết thành hai dãy - lý tưởng và hiện thực. Tất cả những hình thức của nghệ thuật ngôn từ thuộc về dãy lý tưởng chừng nào chúng tồn tại trong hình thức các ý niệm của lý tính. Những hình thức còn lại thuộc về dãy thứ hai - dãy hiện thực. Đến lượt mình, dãy hiện thực được triển khai thành ba hình thức: âm nhạc, hội họa và tạo hình. Trong dãy lý tưởng, các thể loại của nghệ thuật ngôn từ cũng tương ứng với mức độ ấy. Bởi thế, có thể nói, thơ trữ tình, sử thi và kịch chính là âm nhạc, hội họa và tạo hình ở trong ngôn từ. Mỗi một tiểu hệ thống như thế đều có những tính quy luật của chúng. Ví dụ, âm nhạc tuân
Hệ thống hình thái học của Schelling được triển khai đến tận các thể loại riêng biệt. Đương nhiên, ở Selinh, bản chất của hệ thống nghệ thuật không chỉ là ở việc phân loại các hình thức. Dù chứa đựng một sự gượng gạo nào đó, nhưng các hình thức nghệ thuật luôn nằm trong mối liên hệ nội tại Với mối liên hệ này, chúng ta có thể hiểu được các hình thức nghệ thuật ấy.
Lần đầu tiên, nghệ thuật đã được Schelling hình dung như một hệ thống phức hợp đang phát triển một cách biện chứng. Vậy, cái mới của Schelling là ở đâu? Cái mới của Schelling chính là ở chỗ, hệ thống các hình thái nghệ thuật đường như diễn ra từ bên trong và được diễn dịch từ một cơ sở thống nhất, chứ không phải được tạo thành bởi sự đối chiếu đơn thuần những dẫn liệu có tính chất kinh nghiệm nhằm miêu tả các thông số của từng loại hình hay từng loại. Đó là kết quả của việc vận đụng phương pháp mới vào nghiên cứu nghệ thuật. Phương pháp luận của hình thái học nghệ thuật mà Schelling đưa ra là mới mẻ, độc đáo và về nhiều điểm, nó đã dự báo trước sự xuất hiện của phương pháp luận Hêgen.
Phương pháp nghiên cứu hệ thống như một chỉnh thể hữu cơ đã cho phép Schelling xem xét mỗi hình thức nghệ thuật như một chỉnh thể đa điện, có kết cấu nội tại. Phương pháp này giúp chúng ta nhận thấy rằng, quá trình triển khai hệ thống từ cái chung tới cái đặc thù thông qua việc phân tích từng hình thức bằng cách đối lập nó với những hình thức khác để đảm bảo có được sự xem xét đa dạng. Sự đa dạng này góp phần khắc phục tính công thức, sơ lược của các phạm trù đã được hệ thống hóa và giúp chúng ta hiểu một cách tổng thể từng hình thức.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpTương lai trong lòng quá khứ
06/02/2009Nguyễn QuânBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí ThànhVề tật xấu của người Việt: Tre Việt Nam trong thế kỷ 21
09/05/2008Phong Doanh