Trao đổi với ông Phan Ngọc về vấn đề Nho giáo
Gần đây vấn đề Nho giáo được bùng lên như một vấn đề thời sự về học thuật ở nước ta và lôi cuốn khá đông các nhà nghiên cứu tham gia: Phan Ngọc, Trần Đình Hượu, Trần Văn Giàu, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Kiến Giang, Huỳnh Minh Đức, Phan Văn Các, Cao Tự Thanh, Mai Quốc Liên, Tạ Ngọc Liễn... Trong những bài nghiên cứu đó, chúng tôi thấy có nhiều ý kiến đúng rất đáng tham khảo và cũng không ít ý kiến sai cần trao đổi để tránh sự ngộ nhận.
Trong phạm vi bài này, chúng tôi trước hết trao đổi với Phan Ngọc về quan điểm của ông đối với Nho giáo đăng trên nguyệt san Văn hóa và Đời sống (tháng 3-1993)
Đọc kỹ bài của ông Phan Ngọc, chúng tôi thấy không thể không khẳng định nhiệt tâm và thiện ý của ông muốn dùng Nho giáo để phục vụ cho sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mở cửa. Và chúng tôi cũng hết sức tâm đắc khi ông tự đặt cho mình: Nghiên cứu Nho giáo là trách nhiệm, nhất là đối với một "nhà nho cuối cùng" như ông.
Đúng! Chúng ta phải thể hiện hết tinh thần trách nhiệm trong nghiên cứu Nho giáo, nhưng trước hết phải là trách nhiệm đối với tầng lớp "tiểu nhân". Chúng tôi ngờ rằng ông Phan Ngọc không xuất phát từ lợi ích của đám "tiểu nhân". Có lẽ vì thế mà ông đã rơi vào một số nhầm lẫn có tính nguyên tắc.
Điều nhầm lẫn trước hết là ông đã đồng nhất Khổng Tử với Nho giáo.
Mọi người đều biết Khổng Tử có mặt ở Trung Quốc cách đây 2.500 năm và học thuyết của ông được truyền bá vào thời Xuân Thu. Còn cái gọi là Nho giáo thì đã có trước Khổng Tử... Trải qua suốt lịch sử Trung Hoa, Nho giáo lúc thì khỏe khoắn, lúc lại èo một, đâu còn cái "bản lai diện mục" Nho giáo thời Khổng Tử. Cho nên khi giáo sư Phan Ngọc bàn về những lời thuyết giảng của Khổng Tử mà coi là toàn bộ Nho giáo thì e rằng không đúng. Bởi vì xét Nho giáo suốt tiến trình lịch sử của Trung Hoa thì bỏ qua sao được Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư, Chu Hy, Trình Di, Trình Hiệu... ấy là chưa kể những người đã phản đối Khổng Tử và môn phái của ông như Vương Sung, Đái Chấn, Cố Viêm Vũ, Đàm Tự Đồng, Nhan Nguyên, Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Lỗ Tấn...
Như vậy nói theo kiểu nhà nho Phan Ngọc là mới dừng ở "cửa Khổng" chứ chưa tới "sân Trình", càng chưa thấu suốt lịch sử Nho giáo (khác nào khi bàn về triều Nguyễn mà chỉ thấy Gia Long, Minh Mệnh, Tự Đức mà quên các đời chúa Nguyễn hoặc bỏ qua các vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân).
Nghiên cứu một sự vật, nhất là một học thuyết, sao có thể bỏ qua toàn bộ cấu trúc của hệ thống; chỉ xét riêng một thành tố nào đó mà lại kết luận là toàn bộ hệ thống được chăng?
Ngay việc ông Phan Ngọc nêu ở đầu bài là sẽ nghiên cứu sự đối lập giữa Nho giáo Trung Quốc và Nho giáo Việt Nam thì người đọc không thấy. Bởi vì nghiên cứu Nho giáo Việt nam đâu chỉ là nghiên cứu hệ thống giáo dục, thi cử với mấy ngàn vị tiến sĩ được khắc tên trên văn bia mà bỏ qua những người như Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, Hồ Xuân Hương, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Ái Quốc...
Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ xin được phép ngờ vực những luận điểm về Nho giáo sau đây của ông Phan Ngọc:
Luận điểm 1: Ông Phan Ngọc nêu: "Trên trái đất này chỉ có một nền văn minh thách thức với lịch sử: Văn minh Khổng giáo. Bao nền văn minh huy hoàng đã tàn lụi: Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Hy Lạp, Maya..."
Về luận điểm này, ông đã có sự lẫn lộn giữa khái niệm văn minh và văn hóa. Ông cũng quên rằng văn hóa Khổng giáo tồn tại lâu dài đâu chỉ phụ thuộc vào số lượng người đông. Điều căn bản là vì nó phù hợp với nền kinh tế tiểu nông và ý đồ của giai cấp thống trị phong kiến. Đó cũng không phải là hiện tượng tốt đẹp đáng ca tụng vì điều cần nhớ là Nho giáo chưa bao giờ tồn tại vì lợi quyền của đông đảo người lao động bị áp bức (tiểu nhân).
Luận điểm 2: Ông Phan Ngọc viết: "Do chỗ nhân dân các nước Nho giáo được đào luyện trên mấy ngàn năm nên họ cực kỳ thông minh, cực kỳ ham học".
Đúng! Nhưng cũng đừng quên rằng đại đa số những sĩ tử được đào tạo, trong nhà trường Nho giáo thường chỉ được rèn luyện trí nhớ mà không được tăng cường trí tuệ, sao chép giỏi mà phát minh kém. Ngay dân tộc Nhật Bản hiện đại đã tạo nên một nền kinh tế thần kỳ cũng mắc nhược điểm này. Một học giả nước ngoài đã nhận xét: "Người Nhật tài giỏi ứng dụng - thậm chí còn cải tiến thêm - những phát minh của người khác. Chỉ ít năm trước đây họ vẫn được coi là quốc gia của những kẻ chuyên sao chép (...) ngay cả ngày nay, tôi tự chủ, Nhật cũng không phải là một nước có phát kiến mới. (...) Họ là những người giỏi nhất thế giới về khai thác các phát minh của những người khác. Chủ yếu là vì họ bị lạc hậu, (Robert Elegant - Vận mệnh Thái Bình Dương, nội cảnh châu Á ngày nay).
Chắc chắn kỹ thuật sao chép của Trung Quốc cũng như các nước Nho giáo khác không thể thua kém Nhật. Khác chăng là ở chỗ nước này biết sao chép những cái hiện đại, còn nước khác vẫn chỉ là sao chép những cái cặn bã của cô nhân nghĩa là vẫn "pháp tiên vương" mà thôi. Hiện tượng này hẳn là "nhà nho" Phan Ngọc biết quá rõ.
Luận điểm 3: Theo ông Phan Ngọc: "Có truyền thống tôn trọng học vấn, các nước Nho giáo vốn có nền văn hóa cổ đồ sộ, khó lòng những nước thuộc một nền văn hóa khác sánh nổi".
Đúng! Chỉ tính riêng bộ Tứ khố toàn thư của thời Khang Hy nhà Thanh vào thời Nho mạt gồm tới 22.500 bộ sách cỡ lớn nghĩa là phải dùng hàng chục toa xe lửa mới chở hết. Nhưng số lượng sách vở khảo chứng, huấn hỗ này đâu có giúp đỡ gì cho Trung Hoa lục địa cũng như các Trung Hoa đảo thoát khỏi sự xâu xé của liệt cường. Còn riêng về triều Nguyễn, chúng ta không phủ nhận số sách đã biên soạn ấn hành 60 năm cuối đời Nguyễn là một số lượng lớn nhưng đã thấm tháp gì so với số sách của Đại Thanh. Văn hóa đâu chỉ tính về mặt định lượng. Cái định lượng về "vốn sách cổ" mà nhà nho Phan Ngọc dùng để luận chứng cũng chẳng chứng minh được sức mạnh của văn hóa Nho giáo. Thử hỏi số lượng sách đồ sộ của triều Nguyễn và triều Thanh có cứu đất nước họ thoát khỏi nỗi nhục trước lịch sử hay không? Còn cái chuyện cất cánh của đại long Nhật Bản và bốn tiểu long ở châu Á đã có thể quy công cho văn hóa Khổng giáo như giáo sư Léon Vandermeersch và những học giả nói theo ông khăng định, vấn đề này sẽ bàn sau.
Ông Phan Ngọc còn nhận định: "Bốn là Nho giáo cực kỳ tài giỏi trong việc duy trì nền văn hóa của nó". Ông lại còn khuyên bảo: "Ta phải biết học cái thao tác của nó nếu muốn duy trì văn hóa XHCN" và ông thẳng thắn phê phán: "Ta chưa hiểu thế nào là minh triết phương Đông, hăm hở phá hoại chính cái nền móng trên đó ta xây xã hội mới". Chúng tôi ngờ rằng cần phải hiểu ngược lại tất cả các ý trên mới khớp với tình hình thực tế của ta. Duy trì cả những cái hay và cái dở khiến cho người ta thất bại mà lại được coi là tài giỏi thì cũng lạ thật. Còn các thao tác nghĩ theo, nói theo, viết theo đã trở thành kỹ xảo, việc gì phải học. Còn cái gọi là "minh triết phương Đông" thì Nguyễn Ái Quốc hồi đầu thế kỷ và hiện nay dân tộc này vẫn đang hăm hở xây dựng. Riêng cái tác dụng phá hoại của kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường xin đừng lẫn.
Trong các bài viết về Nho giáo của ông Phan Ngọc vừa qua, luận điểm đúng nhất của ông là: "Khổng Tử là người đầu tiên hiểu được thực chất của nền cai trị". Và ông lại đưa thêm một nhận định: "Theo tôi nghĩ, đây là quan điểm chính trị hiện đại".
Theo chúng tôi, cần phải nói thêm như sau: Đây cũng là một nguyên nhân, dù là thứ yếu, đã tạo điều kiện cho các con rồng cất cánh, nghĩa là các nhà cai trị ở 5 nước rồng lớn rồng nhỏ kia đã biết kế thừa xảo thuật của người xưa. Xưa là dương nho âm pháp, còn nay là "dương tư bản âm nho giáo".
Cả giáo sư Léon Vandermeersch và những người nói theo ông đều không biết hoặc vờ không biết đến những nguyên nhân chủ yếu của việc 5 con rồng cất cánh.
Thử hỏi, nếu không có 6 tỷ USD đầu tư và viện trợ của Mỹ cộng với vốn kỹ thuật và các quy trình công nghệ của tư bản Mỹ và tư bản châu Âu, Nhật lấy sức đâu mà cất cánh? Các con rồng khác cũng thế thôi. Không có vốn đầu tư, viện trợ và vốn kỹ thuật của phương Tây, sức mấy các con rồng Đài Loan, Hongkong, Hàn Quốc cất cánh. Ở đây chưa bàn đến mưu mô ngăn làn sóng đổ và "chung lưng mở một ngôi hàng" Đông Á với một dãy tủ kính lộng lẫy trưng bày vẻ rực rỡ của CNTB trong thời kỳ chiến tranh lạnh giữa hai siêu cường.
Và quả là đáng khâm phục khi các nhà cai trị ở các nơi đó đã biết tận dụng truyền thống văn hóa Khổng giáo ở mặt đẹp nhất và cũng là tiêu cực nhất của nó. Còn gì đẹp hơn cái trật tự giữa người với người trong "tam cương ngũ thường", lấy hệ thống gia đình phụ quyền gia trưởng làm nền tảng. Khi các vị chủ tư bản phương Đông đã biết gia đình hóa các xí nghiệp, đã biết kỷ cương hóa toàn bộ xã hội theo khuôn mẫu xưa thì trên đời này còn gì tuyệt vời hơn: Trung hiếu rồi, nhân ái rồi, tín nghĩa rồi, tranh đấu mà làm chi! Nghĩa là trước kia là trung với nhà vua, còn nay ta trung với ông chủ doanh nghiệp.
Người lao động Nhật làm việc trung thành và tận tụy đến mức lâm vào tình trạng karoshi (quá lao tử) nghĩa là chết đột ngột vì lao động quá sức, gục trên bàn làm việc mà chết, ngồi trên xe điện cứng người ra mà chết, đang đi lăn đùng ra mà chết; đến nỗi Chính phủ Nhật mới hôm qua còn hăng hái cổ động cho Tân Khổng giáo, hôm nay đã vội đưa ra khẩu hiệu "Làm việc ít đi là yêu nước", "Người Nhật hãy đi du lịch nhiều hơn nữa".
Cho nên khát khao cất cánh mong đạt được nhiều tỷ dollar tổng sản phẩm quốc dân, hàng ngàn dollar tính theo đầu người; xin đừng bao giờ quên những hiện tượng kiểu đó.
Và đó chính là công lao đóng góp chủ yếu của Tân Khổng giáo đối với sự cất cánh của các con rồng. Hãy nghe một học giả phương Tây - Robert Elegant - người đã thâm nhập thực tế trong các nước rồng tới 20 năm nhận xét sự đống góp phi thường của Tân Khổng giáo đối với sự cất cách của 5 con rồng:
" (...) Sinh ra từ hơn 500 năm trước Chúa Jésus Christ Khổng Tử đã có tác động cũng sâu xa như Chúa vậy... Về cơ bản Khổng Tử dạy rằng con người sẽ sống trong hài hòa và thịnh vượng nếu họ tuân theo một vài quy tắc giản đơn...
Ngài dạy trước hết nhân loại được chia ra thành những kẻ tiểu nhân có nhiệm vụ vâng phục và các bậc quân tử có nhiệm vụ đem lại hạnh phúc chung, chủ yếu là bằng cách nêu tấm gương chân chính... Học thuyết kể trên bảo đảm trật tự. Những người đứng trên cùng phải chăm lo đến những người ở dưới đáy cùng và đến lượt họ, những người này lại phải làm việc một cách cật lực".
Nhiệm vụ vâng phục của những kẻ tiểu nhân là hoàn toàn bắt buộc còn nhiệm vụ đem lại hạnh phúc của các bậc quân tử lại hoàn toàn được thả nổi. Thực tế lịch sử chứng minh rằng các bậc quân tử ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam ít khi thực thi nhiệm vụ của mình. Thế là rõ, mối quan hệ giữa người và người, hay nói một cách cụ thể chính xác là quan hệ giữa tầng lớp quân tử và tầng lớp tiểu nhân do đức Khổng Tử quy định đã được vận dụng một cách sáng tạo và tài tình cho sự nghiệp công nghiệp hóa của 5 con rồng. Đây là tư thế đặc biệt mà chỉ ở các nước Nho giáo mới có. Cũng nên khâm phục và khen ngợi các bậc tân quân tử ở các nước con rồng đã khéo dùng chữ thời của Khổng Tử để tạo ra một kỳ công có một không hai trong lịch sử. Xin nhớ rằng cái thời đó đã một lần đi không trở lại. Cứ xem cuộc chiến tranh mậu dịch đang diễn ra giữa Mỹ và Nhật thì đủ rõ.
Chúng tôi muốn nói với "nhà nho cuối cùng" Phan Ngọc: điều mà ông lo lắng là nguyên khí sẽ bị diệt - e rằng đó là điều lo hão vì nguyên khí của đất nước này, dân tộc này trong tiến trình lịch sử có thế lực nào tiêu diệt được. Có bệnh tất phải chữa, gọi đúng bệnh là quan trọng nhưng kê đơn và bốc thuốc cho đúng còn quan trọng hơn nhiều.
Chúng tôi thấy tác giả Phan Ngọc và một số vị học giả khác dường như có ý muốn bốc Nho giáo làm vị "quân" trong thang thuốc này, e rằng người bệnh sẽ không tránh khỏi bị công phạt. Vả lại, chỉ chữa cho bệnh nhân được phục hồi về thể xác, còn tinh thần thì sao. Nho giáo chưa hề hứa hẹn phục hưng tinh thần thì sao. Nho giáo chưa hề hứa hẹn phục hưng tinh thần cho bất cứ dân tộc nào, kể cả dân tộc đã sản sinh ra nó. Còn đây đó người ta nói đến Nho giáo hoặc Tân Nho giáo, họ cũng không coi nó là vị thuốc mà chỉ là một thứ dầu bôi trơn để cho đông đảo các vị tân tiểu nhân vui vẻ cúc cung tận tụy phụng sự các vị tân quân tử, hay nói một cách cụ thể hơn: hết lòng phục tùng, phục vụ các vị chủ doanh nghiệp bất kể họ là người phương Đông hay người phương Tây.
Cũng xin nói thêm: dùng Nho giáo làm vị "quân" thì giai cấp phong kiến Việt Nam đã dùng quá lâu rồi, nhất là các vua đầu triều Nguyễn, và đã từng làm cho nguyên khí của dân tộc bị thất tán.
Hãy bớt vọng ngoại. Ta bình tâm bàn nhau tận dụng các vị thuốc Nam mới hy vọng đạt hiệu quả chăng?
TP HCM, tháng 4/1994
Viết chung với Ng. T. Thanh Xuân
(*)Bài này đăng trên Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật số 7-1994. Tòa soạn có ghi tên bài là "Nho giáo, Khổng Tử và cuộc sống". Nay xin giữ lại tên cũ và có gọt sửa thêm.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpSống chậm giữa đời nhanh
02/07/2010Lê Thiếu NhơnTương lai trong lòng quá khứ
06/02/2009Nguyễn QuânKế thừa tinh thần yêu nước truyền thống của dân tộc ta trong bối cảnh toàn cầu hóa
02/02/2010Mai Thị QuýBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà Đoá