Thị trường và đạo đức

01:42 SA @ Thứ Bảy - 08 Tháng Hai, 2014
Không chỉ ở Việt Nam mà hầu hết mọi quốc gia trên thế giới, khi kinh tế thị trường ngày càng phát triển, mọi sinh hoạt, mọi hàng hóa, mọi dịch vụ dường như ngày càng “thương mại hóa”, đã nổi lên nhiều ưu tư về sự suy thoái đạo đức của xã hội lẫn con người.

Có người giải thích sự kiện này với khẳng định: Thị trường khiến con người tham lam hơn, xấu xa hơn. Song, như nhiều học giả đã lý luận: Lòng tham thì vô bờ bến, những tính xấu của con người thì đã có từ khi loài người xuất hiện trên địa cầu, và chắc chắn sẽ tiếp tục cho đến ngày tận thế, trong bất cứ thể chế chính trị hoặc kinh tế nào. Thế nên, đi tìm lý do của sự suy kiệt đạo đức (nếu có) đặc thù của kinh tế thị trường thì phải đưa bằng chứng là hiện tượng ấy gắn liền với những đặc tính cá biệt của thị trường, chứ không phải chỉ vì bản tính chung chung của loài người.

Vài năm gần đây, người có nhiều đóng góp nhất về vấn đề này có lẽ là Michael Sandel, Giáo sư triết học của Đại học Harvard. Khởi điểm lý luận của Sandel là câu hỏi: Vì bản chất của thị trường là thương mại, có chăng những loại phẩm vật (hàng hóa hoặc dịch vụ) mà, xét theo một tiêu chuẩn đạo đức nào đó, không nên được mua bán trên thị trường? Theo Sandel, nếu có những vật phẩm như thế thì sự xuất hiện thị trường cho chúng trong một xã hội sẽ làm suy bại đạo đức của xã hội ấy.

*
*     *

Để trả lời câu hỏi “tiền nên mua được cái gì và không nên mua được cái gì” Sandel đề nghị hai tiêu chuẩn: một là sự bất công bằng, hai là sự tổn thương các giá trị đạo đức.

(1) Thứ nhất, sự chọn lựa (trong việc mua bán) trong một thị trường có thể phản ảnh sự bất bình đẳng thu nhập và, quan trọng hơn, bất công bằng trong xã hội. Trong một xã hội mà mọi thứ đều có thể bán và mua, cuộc sống của những người có thu nhập khiêm tốn sẽ khó khăn hơn. Tiền càng mua được nhiều thứ thì sự dồi dào tiền bạc càng quan trọng. Nói rõ hơn, nếu lợi thế của người giàu chỉ là có thể mua xe sang, ở nhà đẹp, dùng hàng hiệu, du lịch nước ngoài, thì sự bất quân bình thu nhập (tuy sẽ tạo ganh tỵ) cũng không gây nhiều hậu quả tai hại. Nhưng trên thực tế thì tiền bạc còn mua được nhiều thứ nữa: thế lực chính trị, sức khỏe, biệt thự ở khu vực yên tĩnh, và con cái thì được vào những trường ưu tú... Chính những thứ này sẽ khiến độ chênh lệch thu nhập ngày càng lớn, làm sâu thêm sự bất công bằng trong một nước, và gây những chia rẽ trong xã hội nặng nề hơn từ thế hệ này sang những thế hệ tương lai... Chính vì thế, theo Sandel, xã hội phải hạn chế quyền lực của tiền bạc để giảm những hậu quả tai hại của những sự không bình đẳng ấy. Đặt một số hàng hóa và dịch vụ ra ngoài sự chi phối của thị trường là một cách chặn bớt hậu quả tai hại của sự bất công bằng xã hội.

(2) Thứ hai, thị trường của một phẩm vật có thể gây thương tổn cho những giá trị của con người và xã hội. Nhìn quanh, ta thấy ngay có nhiều thứ rất tốt đẹp (tình bạn, chẳng hạn) nhưng khi bị gán cho một giá tiền thì giá trị của chúng sẽ gần như không còn nữa. Một người mà anh phải trả tiền mới nhận làm “bạn” của anh thì rõ ràng không phải là bạn anh. Đừng nhầm lẫn tổng thể một thứ tốt đẹp như thế và những dịch vụ mà nó có thể “cung cấp” cho anh. Anh có thể thuê một người để trông nhà cho anh (dịch vụ của một người bạn) khi anh đi vắng, thậm chí anh có thể thuê một cố vấn tâm lý để nghe anh giãi bày “tâm sự”, nhưng, hiển nhiên, những người này không phải là “bạn” anh theo cái nghĩa thật sự của chữ này. Nói cách hoa mỹ, thị trường không chỉ là một cơ chế để phân bố hàng hóa và dịch vụ, nó còn phản ánh và khuyến khích một thái độ nào đó đối với những hàng hóa hoặc dịch vụ được trao đổi. Thái độ này biến đổi chính bản chất của hàng hóa hoặc dịch vụ ấy.

Một ví dụ khác: Khi cha mẹ cho con tiền để nó đọc sách nhiều hơn thì đúng là đứa bé ấy có thể đọc nhiều hơn, nhưng đứa con ấy cũng được gián tiếp dạy rằng đọc sách là một “cực hình” hơn là một thú vui có giá trị tự tại. Tương tự, thuê người nước ngoài để chiến đấu cho chúng ta có thể tiết kiệm sinh mạng đồng bào ta, nhưng cũng làm suy kiệt ý niệm “công dân” một nước.

Như vậy, Sandel lý luận, có nhiều thứ mà tiền không thể nào mua, bởi vì nếu những thứ ấy mà được bán thì chúng không còn là chúng nữa.

*
*     *

Giáo dục là lĩnh vực không bao giờ có thể “thương mại hóa”. Ảnh: Kinh Luân.

Trên thực tế, hai tác hại của một số thị trường như đã nói trên (“không công bằng” và “tổn thương đạo đức”) thường quyện quấn vào nhau, đi đôi với nhau, và không phải bao giờ cũng trắng đen rõ ràng: có nhiều mức độ “không công bằng” và nhiều mức độ “tổn thương đạo đức”.

Lấy “thị trường” nội tạng (để ghép) của con người làm ví dụ. Dù rằng tiền có thể mua một quả thận, một nhãn cầu, mà không làm giảm giá trị y khoa của chúng, nhưng có nên cho phép nội tạng được tự do mua bán không?

Có hai lý do để ngăn cấm sự mua bán này. Một là, thị trường ấy sẽ có khuynh hướng bóc lột những người cùng cực nghèo khổ. Khó nói rằng quyết định bán thận của họ (để mua thức ăn chẳng hạn) là hoàn toàn “tự nguyện”. Cho phép một thị trường như thế tồn tại là vi phạm tiêu chuẩn “công bằng”, chẳng khác gì cho phép người giàu bóc lột người nghèo. Hai là, thị trường ấy sẽ làm tổn thương nhân phẩm, vì trong một xã hội như thế thì hóa ra con người chỉ là một tổ hợp những “linh kiện” (máu, mắt, thận, tim, phổi...) có thể lấy từ thân thể người bán để thay thế những bộ phận “hỏng hóc” ở thân thể người mua. Rõ ràng là tư duy ấy sẽ xúc phạm trầm trọng chuẩn mực đạo đức của đa số chúng ta.

Trẻ em là một ví dụ khác. Hiển nhiên, nếu muốn, chúng ta có thể cho phép một “thị trường” con nuôi. Nhưng không nên cho phép thị trường ấy vì hai lý do. Thứ nhất là vì công bằng. Một thị trường như thế sẽ thiên vị những người giàu có, bởi lẽ những người thu nhập thấp mà muốn có con nuôi thì sẽ chỉ “mua” được những đứa trẻ ít người muốn “mua” (vì đứa bé có dị tật hay thiểu năng, chẳng hạn). Thứ hai là thị trường ấy sẽ xúc phạm những giá trị nhân bản. Gắn cho trẻ em một giá tiền thì chuẩn mực “yêu thương vô điều kiện” của cha mẹ đối với con cái, mà mọi xã hội xưa nay đều coi là thiêng liêng, sẽ không còn nữa. Hơn nữa, sự chênh lệch giá cả (chắc chắn sẽ xảy ra) giữa em này và em khác sẽ củng cố ấn tượng rằng giá trị một đứa bé là tùy vào chủng tộc, giới tính, tiềm năng trí tuệ, thể hình của nó. Tương tự, “thị trường” nô lệ là kinh tởm vì nó xem con người như một loại hàng hóa, có thể (đấu giá) bán và mua. “Nhân phẩm” là vô nghĩa trong những cuộc đấu giá như thế.

Một ví dụ nữa: Lá phiếu của công dân một quốc gia dân chủ cũng không thể mua hoặc bán (dù có người sẵn sàng bán, mua!) vì bổn phận mỗi người dân là một trách nhiệm cộng đồng, không thể được xem là sở hữu của cá nhân. Cho phép mua bán lá phiếu là hạ thấp giá trị của nó, cho nó một nghĩa khác.

Những ví dụ trên đây đủ cho thấy giá trị của nhiều vật phẩm sẽ sút giảm, hoặc mất hẳn, nếu chúng có thể được mua bán trên thị trường. Khi chúng ta quyết định rằng một hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó có thể mua và bán là chúng ta mặc nhiên chấp nhận rằng hàng hóa ấy có thể được xem như một món đồ, là một công cụ để sử dụng hoặc kiếm lời. Không phải giá trị của mọi thứ (ví dụ sức khỏe, giáo dục, đời sống gia đình, thiên nhiên, nghệ thuật, trách nhiệm công dân...) đều là như vậy. Để quyết định thứ nào được phép buôn bán, thứ nào không, xã hội phải thỏa thuận cách thẩm định giá trị thật của chúng. Đó là vấn đề thuộc phạm trù đạo đức và chính trị, không chỉ kinh tế, và lời giải sẽ tùy mỗi trường hợp. Không có một đáp số chung cho mọi thứ, mọi thời.



*
*     *

Cho đến gần đây một giả định căn bản trong kinh tế học là sự “trung tính” của thị trường, nghĩa là bản chất hàng hóa hoặc dịch vụ được đổi trao sẽ không bị ảnh hưởng của thị trường. Nhưng, như Sandel và nhiều người khác đã phát hiện, giả định này không luôn luôn đúng. Thị trường có thể ảnh hưởng đến giá trị tự tại của một phẩm vật khi nó được mua bán bằng tiền. Trong nhiều trường hợp, giá trị trên thị trường át hẳn những giá trị phi thị trường, mà chính những giá trị phi thị trường này mới đáng giữ. Tất nhiên, không phải mọi người đều đồng ý giá trị nào là đáng giữ, và tại sao chúng đáng giữ. Do đó, để quyết định cái gì nên được mua bán trên thị trường, và cái gì là không nên, chúng ta phải quyết định giá trị nào cần được bảo tồn trong những bối cảnh khác nhau.

Theo Sandel, nên phân biệt kinh tế thị trường và xã hội thị trường. Kinh tế thị trường là một công cụ để cơ cấu hoạt động sản xuất và phân bố sản phẩm. Dù không tuyệt hảo (ngay những nhà kinh tế chuộng thị trường cực đoan cũng nhìn nhận rằng thị trường có nhiều “thất bại” cần sự can thiệp của nhà nước), công cụ ấy có những ích lợi và hiệu quả khó chối cãi. Xã hội thị trường, mặt khác, là một lối sống của con người trong xã hội trong đó giá trị thị trường chi phối mọi hoạt động, tư duy.

Như vậy, thị trường, ngoài những “thất bại” theo nghĩa thông thường còn có những ảnh hưởng sâu sắc, có thể là tai hại, đến đạo đức xã hội. Chúng ta có muốn trở thành một xã hội thị trường trong đó những liên hệ xã hội được tái lập theo hình mẫu của thị trường không? Đâu là vai trò và tầm mức thâm nhập của thị trường vào đời sống cộng đồng, vào liên hệ giữa con người với nhau? Đến mức nào thì chúng ta có thể cho phép thị trường làm biến dạng tư duy của chúng ta? Đó là những vấn đề cần suy nghĩ.
FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Từ nước tương “đen”, nghĩ về văn hóa doanh nghiệp

    08/02/2014Th.S Đỗ Thanh Năm (chủ tịch - giám đốc Công ty tư vấn và hỗ trợ chiến lược Win Win)Có một câu chuyện của một công ty được truyền tụng trong giới kinh doanh: Johnson & Johnson (J&J) là một trong những tập đoàn hàng đầu của Mỹ chuyên sản xuất, kinh doanh dược phẩm và dụng cụ y tế...
  • Một góc nhìn về văn hóa doanh nghiệp

    07/02/2014PVVăn hóa doanh nghiệp xuất hiện bởi sự ngầm định hay được xây dựng nên? Bạn có thể chia các giá trị của doanh nghiệp thành hai phần. Phần thứ nhất là các giá trị tồn tại một cách tự phát. Một số trong các giá trị đó được coi là đương nhiên, chúng ta gọi là các ngầm định. Phần thứ hai là các giá trị mà nhà lãnh đạo mong muốn đưa vào doanh nghiệp.
  • Văn hóa doanh nhân đến văn hóa doanh nghiệp

    23/07/2007PVCó một số nhận xét cho rằng, phần lớn các doanh nhân Việt Nam ít đọc sách, ít sử dụng email và ít truy cập thông tin trên Internet. Kinh nghiệm về lãnh đạo và quản lý còn quá mỏng. Kiến thức về thị trường quốc tế, về kinh tế của các nước đang phát triển cũng còn sơ sài...
  • Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam trước những đòi hỏi của thực tiễn

    24/05/2007Mai Hải OanhNhững năm gần đây, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã quan tâm đến việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp, thậm chí có những doanh nghiệp không hề tiếc tiền mời công ty nước ngoài vào hoạch định văn hóa doanh nghiệp cho công ty mình. Học tập văn hóa doanh nghiệp tiên tiến nước ngoài đã trở thành tư duy mới của các nhà doanh nghiệp Việt Nam. Văn hóa doanh nghiệp khởi nguồn từ nước Mỹ, sau đó được Nhật Bản xây dựng và phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, văn hóa doanh nghiệp phải bám sâu vào nền văn hóa dân tộc mới phát huy được tối đa hiệu quả...
  • Những dấu hiệu suy yếu trong môi trường văn hóa doanh nghiệp

    14/11/2006Đông DươngKhi được hỏi rằng tài sản lớn nhất của doanh nghiệp là gì, đa số các Giám đốc cấp cao đều có cùng một câu trả lời đó là con người! Thế nhưng, phản hồi từ các nhân viên cấp dưới lại cho thấy dường như các nhà quản lý của doanh nghiệp chưa thật sự thực hiện đúng với phương châm này.
  • Đạo đức kinh doanh

    08/01/2006Tôn Thất Nguyễn ThiêmNăm 2005 đi qua cùng với sự lắng lại của nhiều vụ xì-căng-đan của một số doanh nghiệp tại TPHCM. Những bài viết trong cụm bài này chỉ nhằm mục đích khơi gợi và nhen nhóm ý tưởng xây dựng một hệ thống quy tắc đạo đức kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp.
  • Đạo đức doanh nhân Việt Nam hiện nay

    05/01/2006PGS.TS Phạm Duy ĐứcTrong bài viết này chúng tôi không đề cập vấn đề đạo đức Doanh nhân là gì? Nội dung đạo đức Doanh nhân gồm những phẩm chất nào? Các vấn đề đó đã được trình bày trong giáo trình của khoa học Quản trị kinh doanh. Ở đây, chúng tôi xin nêu một số vấn đề cơ bản về đạo đức Doanh nhân Việt Nam đặt ra hiện nay...
  • Gắn văn hóa doanh nghiệp với đời sống người lao động

    06/08/2005Ts. Phan Quốc Việt"Tại sao ta thành lập doanh nghiệp? Doanh nghiệp hoạt động có phải chỉ vì tiền hay vì nhiều mục đích khác nữa? Theo tôi, xây dựng doanh nghiệp là để làm cho đất nước hưng thịnh. Như vậy, xây dựng văn hoá doanh nghiệp cũng không nằm ngoài mục đích đó.
  • Làm thế nào để xây dựng Văn hóa doanh nghiệp?

    16/12/2003Trần Thanh HảiTrên các phương tiện truyền thông, người ta đã nói nhiều tới gia đình văn hóa, bảo vệ gìn giữ nền văn hóa dân tộc nhưng với một doanh nghiệp, tế bào của nền kinh tế thì chưa mấy ai nói đến Văn hóa doanh nghiệp. Vậy, có cần xây dựng và bảo vệ một môi trường văn hóa riêng gọi là ''Văn hóa doanh nghiệp'' không? Cách xây dựng văn hóa doanh nghiệp thế nào? Sau đây là bài viết của ông Trần Thanh Hải, một doanh nhân đang công tác tại Đài Loan về chủ đề trên, đã được đăng tải trên Mạng Việt Nam (www.vnn.vn) ngày 13/7/2003...
  • xem toàn bộ