Lang thang và tư duy
Tháng 9.2009, cuốn Alain Robbe–Grillet: Sự thật và diễn giải đã gây chú ý với giới phê bình, nghiên cứu và nhiều nhà văn Việt Nam. Nó chính là một luận án tiến sĩ được đại học Paris 7 xếp vào hạng “tối ưu” (très honorable avec félicitations). Tác giả cuốn sách để lại dấu ấn khá đậm nét trên diễn đàn văn chương những tháng vừa qua lại là một cô gái nhỏ nhắn, có nụ cười duyên dáng. Chị là Nguyễn Thị Từ Huy, giảng viên khoa văn đại học Sư phạm Hà Nội.
Chị từng trần thuật về mình thế này: “Một trong những chủ đề quan trọng đối với tôi là những suy tư về cơ thể trong tư cách là một phần của bản thể con người. Cả cơ thể và bản thể của tôi, trước hết, là quà tặng của ba mẹ tôi. Tuy nhiên cơ thể, với tôi, không chỉ là cơ thể sinh học. Khi viết xong tập thơ, tôi nhận thấy cơ thể tôi là một cái gì lớn hơn nhiều so với chiều cao 1m52 và số cân 45kg của tôi. Cơ thể ấy vừa nặng hơn rất nhiều, vừa nhẹ hơn rất nhiều, có lúc nhẹ đến mức trở thành gió, có lúc nặng đến mức một mình tôi không mang nổi…”
Xin chị cho biết thêm về quyển Alain Robbe–Grillet: Sự thật và diễn giải, chúng tôi được biết đây cũng là luận văn tiến sĩ được viết trực tiếp bằng tiếng Pháp và tự dịch sang tiếng Việt.
Cuốn sách lý giải những tác phẩm mang tính kinh điển của “ông hoàng” trào lưu Tiểu thuyết mới bằng cuộc đối thoại của chính tác giả với Alain Robbe–Grillet. Tôi chọn cách đối thoại để đưa ra những giả thuyết mới về ông và chứng minh rằng bằng việc phục hiện lối tư duy mang tính xung đột, ông nêu bật những lôgic của mâu thuẫn, thứ lôgic gắn kết phủ định và khẳng định trong hệ thống của cái “không”, biến không gian văn học trở thành một không gian trao đổi và hoà hợp các suy tư văn học và triết học, nơi giao thoa giữa các giọng và các tư tưởng, cuốn sách mời chúng ta suy nghĩ về một số vấn đề thời sự của khoa học xã hội và nhân văn, và mời chúng ta tra vấn về những mối quan hệ giữa văn học và triết học, giữa sáng tạo và tiếp nhận, giữa trừu tượng hoá và tưởng tượng, giữa lôgic và năng lực cảm giác. Đó là một nhà văn có cá tính đặc biệt, một triết gia sâu sắc của thế kỷ 20.
Chị tốt nghiệp đại học Vinh và ra làm cô giáo dạy văn, tại sao chị không bằng lòng với cuộc sống hiện tại? Điều gì đã thôi thúc chị đi sâu vào thế giới của ngôn ngữ?
Chị có ý thức về sự dấn thân này với những trải nghiệm bên trong như thế nào?
Thực ra công việc của tôi đòi hỏi phải tiếp xúc với ngôn ngữ, với văn bản, với tác phẩm. Và dạy ở đại học không phải là nói lại những gì người khác đã viết, mà đúng nghĩa, người giảng viên đại học phải công bố kết quả nghiên cứu của mình thông qua các bài giảng. Tôi chỉ làm đúng bổn phận của mình khi viết phê bình. Lẽ ra tôi phải thực hiện bổn phận này tốt hơn, nếu tôi có điều kiện tốt hơn.
Còn việc viết truyện ngắn lại hoàn toàn khác. Nó bắt đầu cùng với một nỗi bất an về sự bấp bênh của đời sống. Đương nhiên viết xong một truyện ngắn không có nghĩa là đời sống hết bấp bênh. Nhưng trong khi viết có thể mơ hồ nhận biết cái cảm giác ngôn từ ở bên trong và ở bên ngoài mình như thế nào, dù rằng thật khó cắt nghĩa cái “như thế nào” này, và có thể nhận biết được cái không và cái có, cái hư vô và cái tồn tại gặp gỡ nhau như thế nào trên một trang giấy hay trên màn hình máy tính. Đồng thời cũng có thể nhận biết các trạng thái đầy và vơi, bị dồn đuổi và tự giải thoát, cảm giác nặng nề và nhẹ nhõm.
Gia đình chị có ai theo nghiệp văn?
Cha tôi là nhà văn Chính Tâm ở Nghệ An, mẹ là nhiếp ảnh gia. Nhà tôi có hai chị em, em trai tôi hiện đang dạy chuyên khoa toán đại học Bách khoa Hà Nội. Từ nhỏ, tôi học toán giỏi hơn văn, nhưng theo ước nguyện của cha, tôi bằng lòng chuyển sang chuyên văn. Sau này khi có tác phẩm đầu tay và tiếp sau đó bố tôi chính là người đọc đầu tiên, góp ý, trao đổi những sáng tác của tôi, giúp tôi thêm vốn sống và bản lĩnh. Ông cũng thường xuyên nhắc nhở tôi phải học và đọc nhiều hơn nữa, và chính ông ủng hộ tôi ra Hà Nội.
Chị có chịu ảnh hưởng từ phong cách của cha không?
Những ngày cuối đời, ông bị ung thư, theo bác sĩ và nhiều người mô tả, rất đau đớn. Nhưng tôi không thể quên những ngày mà cha tôi chống chọi với sự đau đớn ấy bằng gương mặt thanh thản một cách kỳ lạ. Ông oằn mình dưới chăn mà nét mặt vẫn giữ nguyên, chỉ có lần tôi phát hiện ông không cầm được nước mắt. Giọt nước mắt lặng lẽ lăn dài và cái nhíu mày, rồi những cơn thở dốc. Cuối cùng, trước khi nhắm mắt, mọi người hỏi ông có trăng trối điều gì không, ông xua tay và chỉ nói đúng một từ: “Tin tưởng!” Đau đớn và chịu đựng đau đớn, tuyệt vọng nhưng không mất niềm tin… đó là điều tôi học được ở ông.
Trở lại với việc sáng tác: Chị có thể mô tả sự xung đột mỗi khi cầm bút sáng tác thì ngay lập tức cũng xuất hiện nhà phê bình bên trong chị?
Thực sự khi tôi sáng tác, tôi không biết con người phê bình ở đâu, có lẽ nó ở trong một lời cảnh báo rụt rè: “Thứ này tầm phào quá” hay “đừng tự coi thường mi như thế được không?” Cũng có khi nó biến mất tăm. Khi tôi viết phê bình thì con người sáng tác ở ngay đó, ngay dưới mỗi từ tôi viết ra, nhưng thường thì tôi không nhìn thấy nó, và nó cũng không thèm bận tâm đến sự mù loà của tôi. Các lý thuyết gia về văn chương đương đại không phải là không có lý khi nói đến sự tan rã của chủ thể viết. Nếu tôi biết được thấu suốt cái “tôi là” chắc là tôi sẽ không viết gì nữa, không cả phê bình lẫn sáng tác!
Tuy nhiên chị đã rất thành công trong con đường học vấn, và chị đã vượt qua “cuộc chơi” kiến thức đó như thế nào trong con người vốn thèm tự do, bay bổng như chị?
Những việc tôi làm ai cũng có thể làm được. Mỗi chúng ta ai cũng mang chứa trong mình những năng lượng, chỉ cần chúng ta có điều kiện để các năng lượng ấy được giải phóng và biến thành hiệu quả cụ thể.
Tôi cũng chưa làm gì nhiều đáng để được gọi là thành công, vả chăng nói đến thành công bây giờ là quá sớm. Vì những năng lượng cũng rất dễ bị tàn lụi nếu không có điều kiện nảy nở và phát triển, nếu nó bị kìm hãm thay vì được giải phóng.
Tuy nhiên có những kinh nghiệm chung để có thể hoàn thành một công việc cụ thể như cái luận án tiến sĩ. Tôi xin dẫn ra đây lời của anh Vũ Văn Yêm, một người bạn làm việc trong lĩnh vực viễn thông, ở đại học Bách khoa Hà Nội: “Nếu sinh viên Pháp làm việc tám tiếng thì chúng tôi phải làm việc 10 hoặc 12 tiếng mỗi ngày”.Ngoài những phương pháp chung mà ta có thể tìm thấy trong bất kỳ cuốn sách nào dạy cách chiếm lĩnh thông tin, cách lên chương trình làm việc và thực hiện các bước nghiên cứu, thì trong trường hợp cá nhân tôi, có thể bổ sung thêm một điều: điểm khởi đầu không phải là cùng với tất cả những nền tảng kiến thức đã có, mà điểm khởi đầu là quên đi tất cả những gì đã có, biến đầu óc và trí não thành một không gian trống rỗng, để từ đó lấp cái khoảng trống rỗng ấy bằng những kiến thức mới, không định kiến, không dè dặt, và đương nhiên cũng không phải với một thái độ phục tùng hay sùng bái quá đáng.Nghiên cứu không phải là trình bày lại những gì đã thu nhận được mà đúng hơn là đối thoại với những gì đã được đúc kết hoặc tiếp tục mở ra những cánh cửa mới, vì thế mà nó cũng có tính sáng tạo.
Ngoài ra không thể làm việc một mình. Tôi đã nhận được những trao đổi về chuyên môn của những người bạn Việt Nam và nước ngoài, những trao đổi như vậy thúc đẩy nhanh quá trình chiếm lĩnh kiến thức, đặc biệt nhờ đó có thể thấy mình còn hổng và thiếu hụt những điểm gì. Chúng tôi có một nhóm nghiên cứu sinh và duy trì một sinh hoạt chung đều đặn hàng tháng. Ngoài ra, lĩnh vực khoa học xã hội đòi hỏi phải quan tâm đến rất nhiều thứ mới có thể hiểu được sâu sắc đối tượng nghiên cứu của mình. Việc đi xem kịch, đi xem phim, đi tới rạp opera, đi xem các triển lãm, đến nghe các cuộc hội thảo không những về văn học mà về âm nhạc, hội hoạ, múa, kiến trúc… không hề mất thời gian vô ích, trái lại, những hoạt động đó sẽ giúp người nghiên cứu hiểu về những vấn đề mà nếu anh/chị ta chỉ ngồi trước trang sách trong thư viện thì không thể nào hiểu nổi. Thậm chí tôi đã lang thang ở một số hộp đêm của Paris… Lang thang và tư duy, hai cái này hình như chẳng có quan hệ gì với nhau? Tôi ngạc nhiên nhận thấy rằng chính những cuộc lang thang ở hộp đêm, ở bảo tàng, ở nhà hát, ở rạp chiếu phim, ở các buổi tiệc do bạn bè tổ chức… đã giúp tôi rút ngắn khoảng cách về tư duy.
Chị có thể có một bài thơ viết riêng cho mình?
Không, không có bài thơ nào viết cho riêng mình, dù rằng tất cả mọi bài thơ đều viết cho mình. Bạn đọc Heidegger thì biết rồi đấy: trong mình luôn có sự hiện diện của người khác. Ở một lần khác, tôi đã nghĩ về thơ thế này: “Thơ xuất hiện để liên kết những cái “không có”, để hiện thực hoá những cái “không có” ấy bằng tiếng khóc – một cái gì có thật. Thơ không chỉ là cây cầu hư ảo nối hai đầu hư ảo: con người thơ và chân trời huyễn tưởng; thơ có lẽ còn chính là cái chân trời bất khả ấy, nơi cất giữ mọi thực tế và ảo tưởng của chúng ta.
Có thể xem đấy là một cách diễn giải cá biệt về hai câu thơ đầy sức mạnh này của Trần Dần:
Tôi khóc những chân trời không có người bay
Lại khóc những người bay không có chân trời
Chị yêu như thế nào và với chị, tình yêu thì phải thế nào? Người ta có thật sự cần yêu trong thời đại này hay còn có những thứ khác hay hơn, đại loại: nhiều tiền, nhiều danh vọng và cả đi tu?
Tình yêu là một nguồn năng lượng đặc biệt, một sức mạnh quên lãng: vì nó, có thể quên đi những thứ như địa vị, tiền bạc, tuổi tác, ngoại hình, sự khác biệt về tính cách, sự khác biệt về màu da, quốc tịch, tôn giáo; vì nó, có thể quên đi khó khăn, vất vả. Vì nó, có thể đạp xe đạp 20 cây số không thấy mệt; vì nó, có thể bị lây nhiễm bệnh lao mà không thấy phải phàn nàn. Tôi đã từng biết đến một năng lượng gây quên lãng như vậy. Yêu có lẽ không phải là một cái gì tồn tại vì người ta cần hay không cần, nó tồn tại như chính bản thân tự nhiên, nó gây quên lãng và cũng có thể bị lãng quên, nhưng nó là một phần của tự nhiên, đến mức đi tu và yêu, đôi khi hai chuyện đó cũng khó mà tách biệt!
Nghệ sĩ Nguyễn Như Huy: “Theo tôi, Việt Nam hiện đang rất cần những học giả trẻ như Từ Huy, những người am hiểu một cách có hệ thống nguồn tri thức thế giới, cũng như có thể đối thoại một cách đầy sáng tạo và ở tầm mức thế giới về các chủ đề lớn tạo nên khuôn mặt tri thức thế giới hôm nay. Cuốn sách Alain Robbe–Grillet: Sự thật và diễn giải là minh chứng rõ nét cho thái độ lao động khoa học nghiêm cẩn, sự sáng tạo, và kiến văn sâu rộng của Từ Huy, qua đó chúng ta không chỉ thấy hình ảnh Alain Robbe–Grillet hiện ra trong một ma trận thông diễn triết học nối khớp chặt chẽ và có tính giải minh, mà còn được tiếp cận với các mối quan hệ có tính nhận thức rất lý thú giữa “sự thật”/“không – sự thật”, “sáng tạo”/“lặp lại”, tức những mối quan hệ mà bản thân tôi, trong vai trò một người bình luận nghệ thuật, cho rằng rất cần thiết được giới thiệu vào môi trường thảo luận văn hoá nghệ thuật ở Việt Nam” Nhà nghiên cứu triết học Bùi Văn Nam Sơn: “Đó là một “bà nghè” mới toanh vừa tốt nghiệp đại học Paris. Tôi được gặp cô Từ Huy cách đây ba năm khi cô vừa từ đại học Sư phạm Hà Nội sang Paris làm luận án về văn chương Pháp. Khi vừa gặp, nghe cô nói đề tài cô chọn, tôi đã giật mình vì biết làm luận án về văn chương giữa một môi trường đầy rẫy chữ nghĩa mà tất cả bạn đồng học đều là những Tây đầm con nhà nòi và có cái đầu thiên kinh vạn quyển, tác gia mà Từ Huy chọn lại quá khó. Nhưng chỉ ba năm sau tôi nhận được bản tóm tắt luận án bằng tiếng Pháp của Từ Huy gửi vào, chỉ cần đọc tóm tắt tôi đã giật mình, dù chỉ là bản tóm tắt thôi: đây là một thứ tiếng Pháp rất chững chạc, trau chuốt và đầy sức sống. Tôi thán phục khả năng làm việc, khả năng tư duy và khả năng diễn đạt của Từ Huy” |
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiNếu lãng quên lịch sử
13/02/2014Nguyên CẩnTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpSống chậm giữa đời nhanh
02/07/2010Lê Thiếu NhơnTương lai trong lòng quá khứ
06/02/2009Nguyễn Quân