“Khổng Tử bị xua đuổi vì không có hộ khẩu Bắc Kinh”

06:47 CH @ Chủ Nhật - 15 Tháng Năm, 2011

Ngày 11/1 năm nay, Nhà Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc long trọng làm lễ khánh thành tượng đài Khổng Tử trên quảng trường Thiên An Môn. Việc này đã gây ra một cuộc tranh cãi om xòm trong dư luận cả nước; đó là do quảng trường này là nơi linh thiêng nhất trong lòng dân Trung Quốc, xưa nay chưa hề có bất cứ tượng đài nào (trừ các bức tượng đặt trong nhà), từ năm 1949 trở đi chỉ có duy nhất một bức ảnh khổ lớn Chủ tịch Mao Trạch Đông “độc quyền” ngự trị trên thành lầu Cổng Thiên An.

Việc đưa hình ảnh đức Khổng, người từng bị Mao Trạch Đông lên án nặng nề nhất, vào nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm” này có thể bị coi là một biến đổi lớn về chính trị-tư tưởng: phải chăng nó báo trước sự kiện học thuyết của cụ – còn gọi là Nho giáo – sẽ thay thế chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Mao suốt đời theo đuổi?

Ngày 22/4, website msnbc.msn.com dẫn tin hãng Reuters cho biết pho tượng nói trên “đã biến mất” và Nhà Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc không cho biết lý do của sự việc động trời này. Một số người dân pha trò nói Khổng Tử bị xua đuổi vì ngài không có hộ khẩu Bắc Kinh – bản tin viết.

(Bạn có thể xem hai bức ảnh chụp nơi đặt tượng đài này trước và sau ngày 21/4 đăng trên bản điện tử Thời báo New York theo link :
http://www.nytimes.com/2011/04/23/world/asia/23confucius.html.)

Trang mạng sina.com.cn tiết lộ một chi tiết: hôm 21/4 pho tượng đã được dời vào khu vườn tượng bên trong Nhà Bảo tàng. Vuông đất xây cái bệ cao 1,6 m dựng tượng Khổng Tử nay được bọc một hàng rào tôn màu xanh.

Từ nay không ai còn thấy pho tượng đồ sộ với khuôn mặt nghiêm nghị của Đức Khổng Phu Tử ở chỗ nó từng đứng sừng sững như một hòn núi nhỏ sau hôm khánh thành.

Theo website ifeng.com thì cán bộ phụ trách hữu quan của Nhà Bảo tàng Quốc gia giải thích: theo thiết kế tổng thể cải tạo Nhà Bảo tàng này thì tại khu sân phía Tây bên trong khuôn viên Nhà Bảo tàng có lập Vườn điêu khắc dùng làm nơi đặt tượng các danh nhân văn hoá Trung Quốc. Do việc xây dựng khu sân chưa hoàn tất nên bức tượng đầu tiên làm xong (là tượng Khổng Tử) phải “tạm đặt” trên quảng trường chỗ bên ngoài cổng phía Bắc Nhà Bảo tàng.

Cách giải thích này thật khó tin, rõ ràng là sự ngụy biện, bởi lẽ lễ khánh thành pho tượng đồng đen đồ sộ cao 9,5 m (cả bệ), nặng 17 tấn này được Nhà Bảo tàng Quốc gia long trọng tổ chức hôm 11/1 có sự tham dự của một Phó Chủ tịch Quốc hội, một Phó Chủ tịch Chính Hiệp cùng một Thứ trưởng Bộ Văn hóa, chả lẽ là sự “tạm đặt” để rồi sau đấy cất pho tượng vào một khu vườn bên trong khuôn viên khu nhà Bảo tàng?

Chưa kể, không ít học giả đã lớn tiếng ca ngợi việc dựng tượng tại quảng trường Thiên An Môn, coi đây là một cái mốc lịch sử trên con đường phục hồi nền văn hóa truyền thống Trung Hoa. Sử gia Lưu Thân Ninh - Phó hiệu trưởng trương Đảng Thành ủy Thâm Quyến, nhà bình luận thời sự Đài Truyền hình Phượng Hoàng ca ngợi đây là một sự việc “có ý nghĩa phi phàm”, cho thấy Trung Quốc đang tìm lại nền văn hóa của mình, dùng văn hóa để hội tụ niềm tin của đồng bào toàn dân tộc Trung Hoa, giúp họ thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng niềm tin hiện nay, tăng sức mạnh mềm cho đất nước có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.

Dù nói thế nào đi nữa, ai cũng thừa hiểu tượng Khổng Tử phải dời đi vì việc dựng tượng ngài trên quảng trường Thiên An Môn bị đông đảo dân chúng phản đối kịch liệt.

Người Trung Quốc rất coi trọng Khổng Tử, nhà văn hóa vĩ đại của họ, nhưng học thuyết của cụ thì bị họ đối xử hoàn toàn khác. Từ ngày văn minh phương Tây tràn vào Trung Quốc, Nho giáo bị các nhà trí thức tân tiến nước này lên án là nhân tố cản trở tiến bộ lịch sử. Suốt trăm năm qua, nó bị chính người Trung Quốc đả phá tơi bời tưởng như đã chết hẳn.

Sau khi nước này thi hành cải cách mở cửa, dưới sự khuyến khích không ra mặt của chính quyền, Nho giáo mới bắt đầu được dần dần phục hồi, có lúc trở thành cơn sốt. Phái tôn thờ Khổng Tử cho rằng việc phục hồi Nho giáo có lợi cho công cuộc xây dựng xã hội hài hòa, chống lại tình trạng sa sút đạo đức hiện nay và tăng thêm sức mạnh mềm cho quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới này.

Nhưng giới học giả phái Mác-xít và giới học giả phái tự do mạnh mẽ phản đối trào lưu nói trên, coi đó là bước thụt lùi về tư tưởng, vì họ cho rằng Nho giáo đi ngược lại chủ nghĩa xã hội và tư tưởng dân chủ tự do, ngược với trào lưu tiến bộ của loài người.

Vì vậy, việc dựng tượng Khổng Tử trên quảng trường Thiên An Môn đã lập tức gây ra tranh cãi om xòm, thậm chí rất gay gắt. Mạng Nhân dân tổ chức điều tra dư luận, kết quả cho thấy phái tán thành có 455 phiếu, phái phản đối có 10375 phiếu, phái trung lập 491 phiếu, chứng tỏ tuyệt đại đa số không tán thành dựng tượng tại nơi thiêng liêng này.

Sau khi tượng bị di dời, có dân mạng viết: Đưa Khổng Tử trở lại điện thờ thánh thần (ý nói dựng tượng cụ tại quảng trường Thiên An Môn) chẳng qua là việc các nhóm lợi ích muốn đưa xã hội nước này quay lại thời đại xã hội phong kiến sĩ tộc, cha truyền con nối làm quan, đời đời giàu có; đây là một chuyện rất tầm bậy.

Một người viết: Thế là cái đại diện cho gông cùm trên cổ người Trung Quốc đã được dời đi. Tôi thật sự không thích nền văn hoá truyền thống của nước ta.

Sự kiện dựng tượng Khổng Tử trên quảng trường Thiên An Môn được tuyên truyền ca ngợi om xòm một dạo rồi sau đó vài tháng tượng đài này lặng lẽ biến mất khỏi chỗ cũ cho thấy Trung Quốc quả là một đất nước thần bí, nội bộ kém ổn định, mọi chuyện đều có thể thay đổi xoành xoạch chẳng biết do đâu./.


Khổng Tử được rước về Thiên An Môn

(Nguyễn Hải Hoành, Tạp chí Tia Sáng)

Lịch sử Trung Quốc (TQ) cho thấy, đạo Khổng chỉ được tôn vinh khi đất nước này thái bình. Hơn ba chục năm trôi qua, trời đã yên biển đã lặng, thánh nhân được rước về nơi linh thiêng nhất trong lòng người TQ - quảng trường Thiên An Môn.

Vừa qua, Trung Quốc đã làm lễ khánh thành tượng đài Khổng Tử đặt trước Viện Bảo tàng Quốc gia, đối diện với bức ảnh Mao Trạch Đông trên thành lầu Thiên An Môn, xa xa bên kia đại lộ Trường An. Đây là tác phẩm của nhà điêu khắc nổi tiếng Ngô Vi Sơn, Viện trưởng Viện Điêu khắc thuộc Viện Nghiên cứu Nghệ thuật TQ, Uỷ viên Chính Hiệp toàn quốc [1]. Ông giới thiệu: Trong thời gian họp Quốc hội và họp Đại hội Chính Hiệp toàn quốc hồi tháng 3 năm ngoái, Giám đốc Viện Bảo tàng Quốc gia đề nghị ông làm bức tượng này.

Tượng đài là một phần của công trình cải tạo mở rộng Bảo tàng Quốc gia, chi phí hết 2.5 tỷ Nhân dân tệ ( 380 triệu USD). Tượng đúc bằng đồng đen, cao 7.9m, nặng 17 tấn, bệ cao 1.6m, tổng chiều cao 9.5m, theo đúng quy cách kiến trúc Cửu Ngũ chi tôn dành cho bậc đế vương. Dòng chữ tên Khổng Tử và năm sinh, năm mất, đúc bằng vàng gắn trên bệ. Tượng đài hoàn thành trong tám tháng, thoạt trông như một tảng đá, một hòn núi. Cụ Khổng y phục giản dị, hông bên trái đeo bảo kiếm, hai tay chắp vào nhau, mắt đau đáu nhìn về phương xa, nét mặt đôn hậu hiền từ, vẻ cam chịu- chứ không mỉm cười như quy định về tượng Khổng Tử do Hội Khổng Tử đặt ra trước đây dăm năm.

Cụ cam chịu là phải. Số phận cay đắng đến với Khổng Tử ngay từ hồi sinh thời, cụ bỏ ra 16 năm đi khắp thiên hạ du thuyết kêu gọi vua chúa các nước chấp nhận đường lối “ Nhân trị” (Nhân: thương người), nhưng chẳng ai nghe. Hơn 300 năm sau khi cụ chết, từ ngày Hán Vũ Đế “Bãi truất Bách gia, độc tôn Nho thuật” tên tuổi cụ mới được vinh danh suốt 2.000 năm. Nhưng từ cuối thế kỉ XIX khi nhà Thanh khuất phục trước các đế quốc phương Tây, giới tân trí thức TQ tố cáo học thuyết của cụ là nguồn gốc làm dân tộc này hèn yếu, từ đó cụ bị phê phán suốt một thế kỷ. Cách mạng Văn hoá 1966-1976 vùi cụ xuống đất đen. Cụ chỉ còn đựơc tôn vinh trong quần thể người Hoa ở ngoài đại lục. Từ ngày TQ cải cách mở cửa, Khổng Tử được dần dần ngẩng mặt, nay được rước về Thiên An Môn thực quá vinh hiển; nhưng nghĩ lại chuyện cũ, cụ chẳng tin lần này mình sẽ được tôn vinh mãi mãi, cho nên cụ chưa thể vui cười. Xem ra Ngô Vi Sơn rất hiểu tâm trạng Khổng Tử.

Lễ khánh thành tượng đài khách mời cao nhất có Phó Chủ tịch Quốc Hội Tưởng Thụ Thanh và Phó Chủ tịch Chính Hiệp toàn quốc Tôn Gia Chính, hai nhân vật không có thực quyền, và một Thứ trưởng Bộ Văn Hoá. Điều đó cho thấy người ta không muốn làm to chuyện này. Thực ra ai cũng biết dựng tượng Khổng Tử tại Thiên An Môn là chuyện rất nhạy cảm, không chỉ có ý nghĩa văn hoá, và phải được cấp rất cao duyệt y. Dư luận đang hỏi ai là người đưa ra chủ trương ấy, ý đồ sâu xa của nó là gì- chủ nghĩa dân tộc hay CNXH đặc sắc TQ? CNXH liệu có bị thay bằng Nho giáo hay không?

Nhiều người cho sự kiện đó là một tín hiệu rất quan trọng chứng tỏ quốc gia vĩ đại này đang tìm về cội nguồn văn hoá của mình, Nhà nước muốn dùng văn hoá truyền thống để hội tụ niềm tin của toàn dân tộc. Người khổng lồ TQ đã trỗi dậy, có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới rồi, nay cần tìm chỗ dựa văn hoá, tư tưởng. Lâu nay văn hoá phương Tây lấn át phương Đông, TQ chưa tận dụng được nền văn hoá lâu đời 5.000 năm của mình để rèn được một tinh thần dân tộc riêng, như thế sao có thể ngẩng cao đầu.

Có người nói sự kiện trên đánh dấu thời đại hệ tư tưởng phương Tây thống trị TQ đã trở thành quá khứ. Đất nước chiếm 1/4 nhân loại này đã đến lúc cần xây dựng hệ tư tưởng riêng của mình cho xứng với tầm vóc một quốc gia đang sắp sửa dẫn đầu thế giới về quốc lực tổng hợp. Phục hồi học thuyết của Khổng Tử là hướng đi được lựa chọn.

Từ thập niên 90 thế kỷ XX, TQ bắt đầu dần dần phục hồi Quốc học, tức học thuật Trung Hoa. Đa số học giả Quốc học muốn phục hồi Nho giáo mà họ cho là quan trọng nhất. Nhưng việc phục hồi Nho giáo tiến hành rất trầy trật, dù có sự hậu thuẫn không ra mặt của chính quyền. Giới học giả phái Mác-xít cũng như phái tự do đều ra sức phản đối.

Học giả Lý Linh viết “Chó không nhà - Tôi đọc Luận Ngữ”, được bình chọn là sách hay nhất của TQ năm 2007. Sách phê phán Nho giáo một cách hệ thống, lý lẽ sâu sắc khó có thể phản bác. Nhưng tên sách bị nhiều người phản đối. Tác giả thanh minh: Đây chính là lời Khổng tử tự nói về cụ; bất cứ nhà trí thức hoài bão lý tưởng mà bất mãn với thế giới hiện thực thì đều là Chó không nhà…

Cùng thời gian ấy bà giáo sư Vu Đan lên Đài Truyền hình Trung ương thuyết giảng ca ngợi Khổng tử hết lời, được bàn dân thiên hạ (chủ yếu là phụ nữ) khen hay. Các bài giảng ấy tập hợp thành sách “Vu Đan Luận Ngữ Tâm đắc” bán được mấy triệu bản.

Hai cuốn sách viết về đức Khổng, một phê phán tơi bời, một ca ngợi quá đáng, đều cùng là sách bán chạy nhất. Chuyện ấy có lẽ chỉ có ở TQ.

Vì sao Khổng Tử lại long đong lận đận như vậy?

Có thể kết luận: Tất cả chỉ để phục vụ mục đích sâu sa của tầng lớp cầm quyền. Cũng con người ấy, học thuyết ấy, lúc thì ca ngợi lên mây, lúc thì vùi dập không thương tiếc…

Nho giáo trọng lễ giáo, đề xướng “Quân quân thần thần”, tức ai nấy nên tôn ti trật tự, chớ “vượt rào”. Hán Vũ Đế phát hiện Nho giáo có thể củng cố vương triều mình, vì thế đưa học thuyết ấy lên làm hệ tư tưởng của chế độ phong kiến. Mao Trạch Đông muốn lật đổ sự lãnh đạo của Lưu Thiếu Kỳ và “ Phái đương quyền” chống Mao, vì thế ông phải đánh đổ Nho giáo, khuyến khích Hồng Vệ Binh “Tạo phản”. Khi Giang Thanh muốn hạ bệ Thủ tướng Chu Ân Lai có cốt cách nhà Nho trung dung đang chặn con đường thăng tiến của mình, bà ta phát động phong trào “Phê Lâm phê Khổng”.

Hơn ba chục năm sau tượng Khổng Tử chễm chệ ngay tại Thiên An Môn. Rõ ràng, ngài lại được dùng để phục vụ nhu cầu chính trị.

Trước hết là nhu cầu làm cho nội bộ xã hội được hài hoà , yên ổn. Sau 30 năm cải cách mở cửa, kinh tế phát triển thần tốc, đất nước giàu lên chưa từng thấy, cái bánh ga-tô thành quả kinh tế ấy nên phân chia thế nào cho được lòng tất cả mọi người, chuyện ấy đã trở thành vấn đề lớn nhất bên trong xã hội TQ. Do tác động của các nhóm lợi ích, của cái gọi là chủ nghĩa tư bản thân quen (Cronycapitalism), sự phân phối thành quả kinh tế ngày càng bất công, lắm nơi dân nghèo tức giận biểu tình phá phách, giữ ổn định xã hội trở thành vấn đề gay cấn nhất hiện nay. Ban lãnh đạo nước này đề xuất phải thực hiện ý tưởng xã hội hài hoà. Liên kết ý tưởng ấy với vị Chí thánh tiên sư cách đây 2.500 năm sẽ thể hiện ý tưởng cai trị xã hội hiện nay là có nguồn gốc lịch sử và trí tuệ sâu xa, như thế sẽ dễ giành được sự đồng thuận xã hội.

Truyền thống bao giờ cũng là nguồn sức mạnh vô biên, không nhà lãnh đạo nào không tận dụng. Giờ đây người ta giải thích chữ “Hoà” (hoà bình, hài hoà…) như sau: Bộ Hoà bên trái nghĩa là thóc gạo, chữ Khẩu bên phải nghĩa là ăn; dân có thóc gạo ăn thì dĩ nhiên là hoà bình, hài hoà rồi. Chữ “Hài” : bộ Ngôn bên trái nghĩa là nói, chữ Giai bên phải nghĩa là “tất cả đều”; khi mọi người đều được quyền nói tức là dân chủ, là hài hoà với nhau.

Thứ hai là nhu cầu đối ngoại. Trên thế giới, Khổng Tử là người TQ nổi tiếng nhất xưa nay; Nho giáo của cụ gắn liền với lịch sử đất nước này, vì thế Huntington xếp văn hoá TQ vào loại hình văn hoá Nho giáo. Do vậy Khổng Tử dường như đã trở tành đại diện duy nhất của văn hoá Trung Hoa xưa và nay. Chính phủ TQ bỏ tiền tỷ ra xây dựng Học viện Khổng Tử khắp thế giới để quảng bá nền văn hoá của nước họ. Sau khi biết tin Lưu Hiểu Ba được tặng giải Nobel hoà bình, một số học giả TQ phản đối sự trao giải này đã đặt ra “Giải hoà bình Khổng Tử ( Confucius Peace Prize)” để đối chọi lại giải Nobel [2]. Rõ ràng TQ muốn dùng văn hoá Khổng học để chống lại “sự xâm lăng của văn hoá phương Tây”. Họ ra sức tuyên truyền ý tưởng văn hoá phương Đông đang thay thế văn hoá phương Tây dẫn đầu thế giới. Tư tưởng Khổng Tử sẽ là thứ sức mạnh mềm mà TQ đang thiếu, khi sức mạnh cứng của họ đã khá đủ để chọi lại phương Tây.

Chắc chắn quá trình phục hồi Nho giáo sẽ gặp nhiều khó khăn. Sau cả thế kỷ bị vùi dập, Nho giáo gần như đã chết trong lòng người TQ, nay khó có thể trở lại vị trí như trước; nhất là vì nó đi ngược với trào lưu hiện đại hoá. Gần đây không ít nhân vật có máu mặt ở TQ vẫn lên tiếng phê phán nó. Trung tướng Lưu Á Châu, Chính uỷ ĐH Quốc phòng TQ, nói Nho giáo là triết học của xã hội quan trường hoá, chủ trương ngu dân; Nho giáo có tội với người TQ…

Việc tượng Khổng Tử được dựng lại nơi ảnh Mao Trạch Đông độc chiếm từ năm 1949 tới nay rõ ràng là có ý nghĩa chính trị chứ không đơn thuần chỉ để thu hút khách du lịch.

Ghi chú:

[1] Tương đương Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
[2] Hôm 9/12/2010 Ban Bình chọn giải Hoà bình Khổng Tử ( gồm 6 giáo sư ĐH Bắc Kinh, ĐH Sư Phạm Bắc Kinh và ĐH Thanh Hoa) đã làm lễ trao giải này đầu tiên tại Bắc Kinh, người được tặng là ông Liên Chiến Chủ tịch danh dự TQ Quốc Dân Đảng (ở Đài Loan) “ do có đóng góp cho việc bắc cầu hoà bình giữa hai bờ eo biển Đài Loan”; nhưng ông này nói không biết có giải này và không sang TQ nhận giải. Kết quả một bé gái 6 tuổi được nói là đại diện cho Liên Chiến” lên nhận giải trị giá 15.000 USD.

FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Trao đổi với ông Phan Ngọc về vấn đề Nho giáo

    01/05/2011Trần KhuêGần đây vấn đề Nho giáo được bùng lên như một vấn đề thời sự về học thuật ở nước ta và lôi cuốn khá đông các nhà nghiên cứu tham gia: Phan Ngọc, Trần Đình Hượu, Trần Văn Giàu, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Kiến Giang, Huỳnh Minh Đức, Phan Văn Các, Cao Tự Thanh, Mai Quốc Liên, Tạ Ngọc Liễn... Trong những bài nghiên cứu đó, chúng tôi thấy có nhiều ý kiến đúng rất đáng tham khảo và cũng không ít ý kiến sai cần trao đổi để tránh sự ngộ nhận...
  • Đã diễn ra lễ trao giải Nobel Hòa Bình 2010 tại Oslo

    12/12/2010Bùi Quang MinhLễ trao giải Nobel Hòa Bình 2010 diễn ra tại Oslo, thủ đô Nauy sáng ngày 10/12/2010 (đúng ngày kỷ niệm 62 năm Ngày công bố bản Tuyên ngôn Nhân quyền Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948)...
  • Tìm hiểu thêm về giải thưởng Nobel Hòa bình thế giới năm 2010 cho Lưu Hiểu Ba

    16/10/2010Bùi Quang MinhQua bài viết này, Chungta.com xin được trả lời một số câu hỏi bạn đọc nêu ra cho chúng tôi nhằm cung cấp một cái nhìn của chúng tôi cho sự kiện giải Nobel Hòa Bình 2010 và hiểu thêm về nhân vật được giải thưởng này tôn vinh...