Hồn xuân trong thơ Nguyễn Bính
Mùa xuân là mùa gieo lộc, mùa hạnh phúc, lòng người rộng mở, vạn vật giao hoà. Thơ Nguyễn Bính góp phần thổi vào mùa xuân sức sống, gợi lên trong lòng người đọc những xúc động, bâng khuâng chìm đắm...
Nguyễn Bính là một nhà thơ của thôn quê Việt Nam truyền thống. Thơ của Nguyễn Bính mang bản chất trữ tình, đôn hậu. Nhẹ nhàng nhưng chứa chan tình cảm. Trong thơ Nguyễn Bính chúng ta không thấy ngôn từ bóng bẩy, văn hoa của thị thành. Đã từ lâu nhiều nhận xét trên thi đàn văn học qua bộ môn thi ca tiền chiến đều đồng ý cho rằng Thơ Nguyễn Bính gần gũi với dân chúng nhất, gần gũi như cành lá sớm mai, tiếng chim hót trên hàng tre ban trưa và làn khói lam thổi cơm buổi chiều...
Trong mạch thơ tìm về khung cảnh làng quê xưa để hoài niệm, để tìm một sự yên lắng cho tâm hồn tránh những rối rắm của kinh thành đô thị thì những bài thơ xuân của Nguyễn Bính có một ý nghĩa đặc biệt. Mùa xuân là mùa “đâm chồi” những giao cảm tình người. Nguyễn Bính lại là người sớm tha hương phiêu bạt tứ xứ, nên mỗi độ xuân về ông càng thổn thức tưởng đến quê hương, đến người thân.
Nguyễn Bính ở báo Trăm Hoa năm 1957
Chẳng thể nào giấu được niềm bâng khuâng trước những bài thơ xuân tuyệt tác như: “Mưa xuân”, “Xuân về”, “Thơ xuân”, “Xuân tha hương”… Có thể nói, đây là những bài thơ thể hiện cái “chất Nguyễn Bính” rõ nhất. Với Nguyễn Bính, cảm hứng mùa Xuân luôn tươi mới và không hề phai nhạt :
Lòng tôi như cánh hoa tiên ấy
Một áng thơ đề nét chẳng phai.
Mở đầu bài "Thơ xuân" là một không khí vui tươi, hoạt bát:
Đây cả mùa xuân đã đến rồi
Từng nhà mở cửa đón vui tươi
Từng cô em bé so màu áo
Đôi má hồng lên nhí nhảnh cười
Điều đáng chú ý là mùa Xuân ở trong thơ Nguyễn Bính thật sống động, người và cảnh thật gần gũi mà cũng thật lung linh, kỳ ảo. Những vần thơ mang những hạt mưa xuân của ngày hội làng khi hoa xoan rụng ngập tràn ngõ xóm. Hãy lắng nghe “Xuân về” của Nguyễn Bính để lạc vào một cõi yên bình trong trẻo….
Đã thấy xuân về với gió Đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong.
Nguyễn Bính có một biệt tài không lẫn là có thể lay động cái hồn quê ở trong mỗi người chúng ta nhờ sức mạnh của những vần thơ. Thơ Nguyễn Bính có đặc điểm chung là thường dùng phương thức tự sự - phương thức truyền thống của văn học Việt Nam. Tự sự thường dễ bị sa vào kể lể dông dài, đơn điệu, nhàm chán. Nhưng thơ Nguyễn Bính luôn thu hút, lôi cuốn người đọc. Chiếc cầu nối chắc bền nhất thi sĩ với công chúng và cũng là điều quyết định sức sống của thơ ca chính là “hồn quê".
Tình yêu với mùa xuân đã giúp Nguyễn Bính xoá tan những ảm ảnh của cuộc đời, đánh thức những tư duy xúc cảm của con người. Mỗi khi Xuân về, Nguyễn Bính lại trào lên tứ thơ nồng nàn. Vẻ đẹp trong trẻo của mùa xuân thật khó cưỡng, màu má em đã nhuộm sắc cho xuân thêm tươi mới. Từ ngõ xóm, đường làng, hàng cây, ruộng vườn, bến sông, con đò đều bừng tỉnh, dập dìu…
Từng đàn con trẻ chạy xun xoe
Mưa tạnh trời quang nắng mới hoe
Lá nõn nhành non ai tráng bạc
Gió về từng trận gió bay đi
Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng
Khi đất trời sang mùa mới, thiên nhiên giao hào đã làm bật lên những chồi non trong tâm hồn thi sĩ. Bao nhiêu tuổi đời là bấy nhiêu tuổi xuân, mỗi mùa xuân lại hiến lên đa sắc, muôn hình muôn vẻ. Bài “Cô lái đò" lừng danh mở đầu bằng một "xuân mong nhớ":
Xuân đã đem mong nhớ trở về
Lòng cô gái ở bến sông kia
Nhưng "Sao chẳng về đây" lại tạo dựng một quang cảnh "xuân - chờ đợi" với sự hối thúc của tác giả. Nhiều khi quá bon chen nơi chốn thị thành xô bồ để vật lộn với cuộc sống, nên không còn biết gì là xuân sang, Tết đến. Sực tỉnh ra điều đó, thi sĩ đã vội vàng về cái xóm Dừa yêu dấu của mình để đón xuân, thưởng thức một mùa xuân đượm chất quê hương với đầy những hình ảnh vô cùng yêu thương của làng quê.
Xuân đã sang rồi em có hay
Tình xuân chan chứa, ý xuân đầy
Kinh kỳ bụi quá xuân không đến
Sao chẳng về đây, chẳng ở đây
Từ năm 1936 đến năm 1940 là thời kỳ sáng tác sung mãn nhất của Nguyễn Bính. Phần lớn những bài thơ có giá trị đều được ông sáng tác trong thời kỳ này. Tiêu biểu phải nhắc đến “Mưa xuân”. Toàn bộ “Mưa xuân” là một câu chuyện yêu đương hẹn hò, vui buồn của đôi trai gái đến tuổi lấy vợ gả chồng. Cô gái sống bằng nghề canh cửi phải lòng chàng trai làng bên. Họ đã vài lần nói chuyện với nhau. Một hôm, có hội chèo về hát, cô gái xin phép mẹ đi xem với mục đích để được gặp chàng trai:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Hai câu thơ ngắn bảy chữ đủ để Nguyễn Bính nói lên được cảnh sắc đất trời vào xuân ở làng quê Bắc Bộ. Mùa xuân trong ông không phải gợi lên từ sắc đỏ rực rỡ của những cành đào, hay sắc vàng lung linh của hoa mai mà gắn với hoa xoan, một biểu tượng của nông thôn Việt Nam. Tả mưa và hoa như thế thật là tài tình. Thiên nhiên bước ra trong “Mưa xuân” có một vẻ đẹp lung linh, huyền diệu.
Đặc biệt nghệ thuật tả cảnh tài tình của Nguyễn Bính được vận dụng vào đây để tạo thành những câu thơ đắt. Mưa phơi phới bay thì đúng là mưa xuân rồi. Những cơn mưa của sự hớn hở trong lòng người. Sự lỗi hẹn của chàng trai đã làm trái tim của cô gái vừa mới chớm nở đã vội tàn. Cô thôn nữ lại trở về ‘’ trong khung cửi’’, lại về với thế giới con gái của mình,chỉ là thôi không còn những xôn xang của lần đầu hò hẹn. Thế nhưng hi vọng vẫn còn đó, cô gái như thủ thỉ, tâm tình mang theo cả khát khao hò hẹn cho những xuân sau.
Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày!
Bao giờ em mới gặp anh đây?
Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ,
Để mẹ em rằng: hát tối nay?
Sau ngày Cách mạng thành công, Nguyễn Bính vẫn nối tiếp nguồn mạch thơ xuân. Những nét vui đã được thấy rõ hơn. "Mưa xuân" thời mới thật ấm áp và có sức gợi đến lạ:
Nào ai nhìn rõ thấy mưa xuân
Tơ nhện vừa giăng sợi trắng ngần
Bươm bướm cứ bay không ướt cánh
Người đi trảy hội tóc phơi trần
Bài thơ "Xuân nhớ miền Nam" có hai câu cuối đã phổ biến đến mức không dịp Tết nào không được nhắc đến:
Bốn đường tàu chạy mưa xuân ấm
Triệu lá cờ bay gió tết lành
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo bánh chưng xanh
Xuân trong thơ Nguyễn Bính hiện lên không ồn ào, náo nhiệt, không khoa trương, ầm ĩ, nhưng rất nhẹ nhàng, thanh thoát. Mùa xuân trong thơ thi sĩ thật dung dị, thật đằm thắm, và đẹp một cách mặn mà, đúng như cách mà thi sĩ đã nói về mùa xuân trong thơ của mình: “Tình xuân chan chứa, ý xuân đầy”. Nguyễn Bính mất đúng vào ngày 30 tết (năm Ất Tỵ 1966) - không kịp đón xuân mới, nhưng ông mãi để lại cho đời những mùa xuân nồng ấm…
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiBệnh sùng bái thần tượng và sự rối loạn của giáo dục
05/04/2019Hư học hư làm, hư tài
16/04/2014Có khi bi quan khi nhìn vào thực trạng văn hóa
12/04/2016Hồng Thanh Quang (thực hiện)7 nguyên tắc sống bất di bất dịch của Đại bàng
24/12/2015Bài học cuộc sống từ "Vua hề Sác-lô"
07/12/2015