Tìm hiểu logic của sự hình thành khái niệm

10:14 SA @ Chủ Nhật - 10 Tháng Mười Hai, 2006

Đây là một vấn đề mà người nghiên cứu phải đặt ra khi muốn đi đến cội nguồn của một khái niệm nào đó và sử dụng nó có hiệu quả trong quá trình tư duy và hoạt động thực tiễn. Như đã biết, tư duy là một phạm trù cơ bản của triết học. Tư duy có thể được hiểu theo nghĩa là toàn bộ đời sống tinh thần của con người, là phạm trù đối lập với phạm trù vật chất (nghĩa này được dùng khi nói về vấn đề cơ bản của triết học). Tư duy cũng có thể được hiểu theo nghĩa hẹp hơn đó là giai đoạn cao của nhận thức (nhận thức lý tính). Theo nghĩa thứ hai, tư duy có quá trình hình thành, vận động và phát triển. Khái niệm một hình thức của tư duy - đương nhiên cũng có quá trình sinh thành, vận động và phát triển. Quá trình sinh thành, vận động và phát triển (gọi tắt là quá trình hình thành) của khái niệm có logic của nó. Vậy, logic của sự hình thành khái niệm là gì?

Để trả lời câu hỏi nêu trên, trước hết cần phải làm rõ "logic là gì”? Thuật ngữ "logic" bắt nguồn từ thuật ngữ “logos" trong triết học Hi Lạp cổ, với các nghĩa là lời nói, tư tưởng, lý tính, quy luật. Triết học macxít không sử dụng thuật ngữ "logos", mà thay vào đó là thuật ngữ “logic". Thuật ngữ "logic" đùng để chỉ những thuộc tính tất yếu, khách quan của các quá trình, hiện tượng. Tính tất yếu, khách quan này được con người nhận thức ở nhiều cấp độ khác nhau.

Ở cấpđộ thứử nhất,logic là tính tất yếu của một sự vật, hiện tượng, một quá trình nào đó với tư cách là cái đơn nhất. Khi tìm hiểu logic của sự hình thành khái niệm ở cấp độ này, chúng ta cần làm rõ cơ chế và quy trình hình thành nên khái niệm, tính tuần tự của các thao tác kế tiếp nhau một cách tất yếu trong quá trình tư duy đi đến khái niệm, những yếu tố cần và đủ cho sự ra đời cũng như sự tồn tại của khái niệm…

Ở cấpđộ thứ hai,logic là tính tất yếu của một nhóm nhỏ các sự vật, hiện tượng, có nghĩa là tính tất yếu đã có sự lặp lại nhưng mới chỉ ở một số ít các sự vật, hiện tượng hữu hạn với tư cách là cái đặc thù. Ở cấp đủ này logic có thể được hiểu như là một thuộc tính, bên cạnh rất nhiều thuộc tính khác nữa, và thuộc tính ở đây được hiểu là tính quy luật. Khi tìm hiểu logic của sự hình thành khái niệm ở cấp độ này, chúng ta cần xét theo nhóm. Ví dụ, nhóm các khái niệm triết họe, nhóm các khái niệm khoa học xã hội, nhóm các khái niệm khoa học tự nhiên...

Ở cấpđộ thứ bạ(cấp độ cao nhất), logic đồng nghĩa với quy luật. Đó là những mối liên hệ phổ biến, tất yếu, tương đối ổn định được lặp đi lặp lại ở nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau. Khi tìm hiểu logic của sự hình thành khái niệm ở cấp độ này, chúng ta cần phải tìm ra được những quy luật của sự hình thành khái niệm nói chung. Đây là một công việc hết sức phức tạp.

Dù nghiên cứu logic của sự hình thành khái niệm ở cấp độ nào chăng nữa, chúng ta cũng phải làm rõ tính tết yếu khách quan của sự hình thành khái niệm. Đương nhiên, cần chú ý rằng, sự phân biệt giữa "một nhóm khái niệm" với "nhiều khái niệm" chỉ là tương đối. Nhìn ở một góc độ khác, khi tìm hiểu logic của sự hình thành khái niệm, chúng ta có thể tiếp cận khái niệm trong các trường hoạt động của nó.

Trường thứ nhấtlà khảo sát khái niệm trong tính lịch đại, nghĩa là xét logic của sự hình thành khái niệm trong một quá trình lịch sử của nó, trong tính tất yếu nội tại của bản thân nó, bất luận nó đã được cá nhân nhận thức hay chưa, nhận thức đến đâu. Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận vai trò của con người, bởi quá trình hình thành khái niệm chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở nhận thức của con người, chỉ có thể diễn ra trong bộ não người. Ở đây, khái niệm không còn nằm trong khuôn khổ tư duy của một cá nhân xác định, mà đó là kết tinh trí tuệ của loài người. Với sự phát triển không ngừng của tri thức nhân loại, sự phát triển của khái niệm đến một "độ" nhất định sẽ tự sản sinh ra khái niệm mới, tự mở đường đi đến những lãnh địa mới, sự tự phát triển này diễn ra như thế nào? Chúng ta có thể tìm được lời đáp cho vấn đề này trong "Khoa học logic" của Hêgen. Ở đó Hêgen nói về sự chuyển hóa liên tục của "tồn tại" thông qua những nấc thang trung gian, mà chúng ta hiểu đó là sự tự triển khai của khái niệm thông qua những khái niệm trung gian khác để đưa nhận thức đến một trình độ cao hơn nữa. Theo đó, khái niệm được coi là kết quả sẽ lại trở thành khái niệm trung gian của một khái niệm mới, và quá trình ấy sẽ không có điểm dừng.

Trường thứ hailà khảo sát khái niệm trong tính đồng đại, nghĩa là cần cắt ngang quá trình hình thành và phát triển của khái niệm để nghiên cứu những yếu tố, những điều kiện cần và đủ cho khái niệm tồn tại và hoạt động. Ở đây, khái niệm coi như là cái đã có, như là kết quả của quá trình tư duy. Trong trường hợp này, chữ "xuất hiện" và chữ "tồn tại" là như nhau. Chúng ta xét khái niệm trong cả một quá trình, mà quá trình ấy như đã được co lại, rút lại, được đồn nén lại. Có thể làm được như vậy là vì logic của sự vận động của tư tưởng trong đầu óc một người riêng rẽ lặp lại và sát nhập với logic của sự phát triển lịch sử của tư duy, xét về đại thể và toàn bộ, dưới hình thức vắn tắt và "được lược bỏ". Nói về sự "rút gọn" mà không bỏ qua này, Ph.Ăngghen đã viết trong "Biện chứng của tự nhiên" như sau: "Sự phát triển của một khái niệm nào đó, hay của mối quan hệ giữa những khái niệm...trong lịch sử của tư duy đối với sự phát triển của nó ở trong đầu óc một nhà biện chứng riêng rẽ thì cũng như là sự phát triển của một cơ thể nào đó trong cổ sinh vật học đối với sự phát triển của nó trong bào thai học (hay, nói rõ hơn là trong lịch sử và trong một mầm mống riêng rẽ)".

Đến đây, người nghiên cứu sẽ vấp phải một vấn đề có tính chất phương pháp luận: Giải quyết mối quan hệ giữa cái lịch sử và cái logic như thế nào? Khảo sát khái niệm theo trường thứ nhất liệu có làm cho cái logic bị ảnh hưởng, còn khảo sát khái niệm theo trường thứ hai liệu cung cấp làmcho cái lịch sử bị tổn thương? Cách duy nhất đúng là, đã lựa chọn việc khảo sát khái niệm theo hướng nào (lịch đại hay đồng đại), chúng ta cũng vẫn phải tôn trọng mối quan hệ mật thiết của cái lịch sử và cái logic. Bởi đây chính là chìa khóa để tìm đến logic của sự hình thành khái niệm.

Lịch sử là bản thân quá trình vận động và phát triển của hiện thực, diễn ra với tất cả tính đa dạng muôn vẻ của nó, bao hàm những tiến trình tuần tự, những bước nhảy và cả những ngẫu nhiên. Còn logic là cái được trừu tượng hóa từ lịch sử, thể hiện những mối quan hệ, liên hệ, tác động lẫn nhau giữa các mặt, các quá trình lịch sử, với tư cách là những quy luật.

Mối quan hệ giữa cái lịch sử và cái logic là mối quan hệ thống nhất biện chứng có chứa đựng mâu thuẫn. Sự thống nhất giữa chúng thể hiện ở chỗ, cái lịch sử luôn hàm chứa cái logic, còn cái logic luôn được chứng minh bằng cái lịch sử. Sự mâu thuẫn giữa chúng thể hiện ở chỗ, cái lịch sử là những ngẫu nhiên, những quanh co, khúc khuỷu, còn cái logic đã gạt bỏ những ngẫu nhiên ấy, chỉ còn lại hạt nhân là những quy luật. TheoRôdentan, cái logic có hai đặc điểm, mà hai đặc điểm này cũng thể hiện sự thống nhất với cái lịch sử.

Thứ nhất, logic là sự tái sản sinh cô đặc, vắn tắt của lịch sử, đã tẩy sạch tất cả những cái ngẫu nhiên và thứ yếu (như cách nói của Hêgen), đã thóat khỏi hình thức lịch sử cụ thể, là cái đã được cô lại, nhào lại, cải tạo lại trong lịch sử. Nhưng logic không phải là bản sao đơn giản, "không có linh hồn", cứng đờ của quá trình lịch sử, mà là lịch sử được sửa chữa lại, uốn nắn lại trên tinh thần phù hợp với những quy luật mà bản thân quá trình lịch sử đã hàm chứa.

Thứ hai,tuy phản ánh lịch sử, nhưng logic là sự tái sản sinh lịch sử ở một trình độ cao hơn trên cơ sở đạt được của trình độ nhận thức hiện tại phát triển hơn. Trình độ nhận thức hiện tại là "chòi quan sát" mà ở đó ta có thể nhìn lại cả một tiến trình dài của lịch sử đã qua cũng như những khuynh hướng của lịch sử sẽ diễn ra trong thời gian tới. Đây là cơ sở chính cho sự ra đời "trước hiện thực" của nhiều khái niệm. Về vấn đề này, có thể dẫn một câu nói nổi tiếng của C.Mác: giải phẫu con người là chìa khóa để giải phẫu con vượn.

Mối quan hệ biện chứng giữa cái lịch sử và cái logic được thể hiện một cách rõ nét trong khái niệm, bởi vì khái niệm là sự phản ánh chân thực lịch sử bằng cách giữ lại cái logic của hiện thực ấy trong tư duy. Nghiên cứu khái niệm theo lát cắt đồng đại sẽ cho thấy lịch sử được dồn nén trong nó như thế nào. Còn nghiên cứu khái niệm bắt đầu từ lịch sử, không thóat ly khỏi lịch sử (theo lịch đại) lại là một nguyên tắc bắt buộc.

Xác định nơi bắt đầu của lịch sử để tìm nơi bắt đầu của tư duy, nơi có thể hình thành nên khái niệm không phải là một vấn đề đơn giản, bởi vì bản thân lịch sử cũng có muôn vàn mặt khác nhau, và mỗi mặt ấy đều có thể được coi là khởi điểm. Vậy dựa vào tiêu chí nào? C.Mác đã đưa ra một tiêu chí khi nghiên cứu về tư bản: nếu như việc nghiên cứu bắt đầu từ chỗ lịch sử bắt đầu, thì nó cần phải bắt đầu từ cái làm thành bước chuyển, làm thành mắt xích nối liền giữa quá khứ với hiện tại.

Nghiên cứu khái niệm cũng vậy, phải tìm ra được hiện thực nối liền khái niệm đã có với khái niệm đang hình thành. Hiện thực ấy là những sự kiện.Khi bám chắc vào lịch sử để tìm ra logic, nhận thức khoa học rất đề cao vai trò của sư kiện.Các sự kiện với tư cách là những mặt, những yếu tố đa dạng của hiện thực, được con người thụ cảm và ghi nhận, giúp con người đi sâu vào bản chất của khách thể. Tuy nhiên, không nên quan niệm phương pháp lịch sử là sự liệt kê, mô tả một cách giản đơn các sự kiện chồng chất, bởi nếu như vậy sẽ dẫn đến sự nhầm lẫn giữa cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên và hậu quả là không thể đi đến khái niệm được Điều đó có nghĩa là khi xuất phát từ lịch sử, phải vạch ra tính quy luật của những sự kiện ấy, tìm ra được tính tất nhiên ẩn giấu sau những ngẫu nhiên. Như vậy, "nếu phương pháp logic cũng là phương pháp lịch sử, nhưng đã thóat khỏi hình thức lịch sử, thì đến lượt mình, phương pháp lịch sử phải bao hàm trong mình yếu tố của phương pháp nghiên cứu logic". Lênin đã chỉ ra con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, mà trên con đường đó là sự triển khai của vô vàn khái niệm. Song, nên hiểu con đường biện chứng này như thế nào? Về vấn đề này, Rôdentan viết: "Nhiều hoàn cảnh làm cho tư duy con người thành phức tạp, không cho phép quá trình nhận thức diễn ra dưới dạng "thuần tuý" chỉ trong những trường hợp rất hãn hữu mới có thể theo dõi trực tiếp thấy quá trình ấy bắt đầu từ trực quan sinh động rồi từ trực quan sinh động chuyển thành khái niệm, quy luật. Trong phần lớn trường hợp, tư duy con người bắt đầu ngay từ những khái niệm, lý luận đã nêu ra và được biết từ trước đó được gọi là bộ khái niệm công cụ, xuất phát điểm để nhận thức vươn tới những chân trời mới. Nếu tư duy lại bắt đầu từ trực quan sinh động, thì trực quan sinh động sẽ bị nhét đầy những khái niệm, ý niệm trừu tượng, thành thử mối liên hệ từ cái này sang cái khác hoàn toàn bị che lấp đi. Những khái niệm công cụ hay những khái niệm trung chuyển từ vốn tri thức, sự hiểu biết đã có củachủ thể sang khía cạnh mới, lĩnh vực mới của hiện thực sẽ đóng vai trò là khởi điểm của quá trình hình thành nên khái niệm mới. Việc rút ra khái niệm này từ khái niệm khác không phải là việc làm hoàn toàn mang tính tư biện, mà nó cũng phải dựa trên cơ sở phản ánh tính tất yếu của khách thể.

Nghiên cứu khái niệm trong tính lịch sử, đó là tinh thần của logic biện chứng. Luận điểm này có liên quan đến vấn đề kinh nghiệm. Những khi xét kinh nghiệm, phải tránh sa vào chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa kinh viện, bởi vì sử dụng phương pháp lịch sử mà không có logic sẽ dễ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm hẹp hòi.Theo nghĩa rộng, kinh nghiệm được hiểu là vốn tri thức tích luỹ được thông qua hoạt động thực tiễn của cả nhân loại từ khi xuất hiện ý thức. Lênin đã phải đảo ngược Hêgen ở quan điểm: "Hoạt động thực tiễn của con người phải làmcho ý thức con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần những hình tượng logic khác nhau để cho những hình tượng này có thể có được ý nghĩa những công lý". Với một bề dày lịch sử, kinh nghiệm của loài người được đúc kết lại thành kho tàng vô giá, được thế hệ này nối tiếp thế hệ kia bồi đắp thêm. Song, kinh nghiệm chỉ thực sự có giá trị khi con người biết cách vận dụng nó, mà một tấm gương điển hình về vận dụng nó là C.Mác, chủ nghĩa Mác là một thí dụ chỉ rõ ràng chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh như thế nào từ tổng số những kiến thức của nhân loại, tất cả những cái mà xã hội loài người đã sáng tạo ra, Mác đã nghiền ngẫm lạimột cách có phê phán, không hề bỏ sót một điểm nào". Những tác phẩm của C.Mác được đánh giá là những kiệt tác vì đã kết tinh tư tưởng nhân loại bởi một bộ óc thiên tài. Nhưng bên cạnh đó, các tác phẩm của ông cũng mang một luồng sinh khí mạnh mẽ, bởi chúng đã được kiểm chứng qua phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Ở đây, vai trò của kinh nghiệm theo nghĩa hẹp đã phát huy tác dụng của mình.

Theo nghĩa hẹp, kinh nghiệm được hiểu là vốn tri thức được đúc kết lại thông qua hoạt động thực tiễn của bản thân chủ thể Ph.Ăngghen luôn khẳng định sự cần thiết của việc nghiên cứu lịch sử phát triển của khái niệm, của lý luận, bởi vì khái niệm cũng như lý luận nói chung "không phải do bẩm sinh mà cả cũng không phải do ý thức bình thường hằng ngày đem lại, mà đòi hỏi một tư duy đã trải qua một lịch sử kinh nghiệm lâu dài". Sức thuyết phục của lý luận là ở chỗ đó. Nếu chỉ là sự sao chép đơn thuần, sự chắp nối vụng về các kinh nghiệm đã có thì lý luận sẽ mất đi sức sống tự thân. Để thấy được điểm khác nhau giữa ýnghĩa nêu trên của lý luận Hêgen đã có một sự so sánh: "Giống như, cùng một câu cách ngôn luân lý, nếu do một thanh niên nói ra, tuy anh ta hiểu nó một cách hoàn toàn đúng đắn, thì lại không có cùng một ý nghĩ và cùng một tầm rộng như khi câu đó xuất phát từ miệng một người từng trải việc đời, và khi nói câu đó, người này đã nói lên toàn bộ sức mạnh nội dung của nó”. Lênin nhận xét rằng đây là một "sự so sánh hay, duy vật".

Việc tổng kết kinh nghiệm, phân tích lịch sử sẽ là điểm xuất phát cho nhận thức khoa học mà trên đó, các khái niệm được triển khai, được "mài sắc, gọt giũa, mềmdẻo, năng động". Từ lịch sử mà ta thấy được sức mạnh của khái niệm đang vận động. Rõ ràng, "toàn bộ sức mạnh nội dung của khái niệm” nằm ở sự tất yếu của việc hình thành nên khái niệm ấy, nằm ở hàm lượng tri thức nhân loại dồn nén trong nó, nằm ở sự phát triển, tự triển khai của nó dưới dạng tiềm năng.

Như vậy, để khai thác được toàn bộ sức mạnh nội dung của khái niệm, chúng ta cần phải làm rõ được logic của sự hình thành khái niệm. Muốn làm rõ được logic của sự hình thành khái niệm, chúng ta phải bắt đầu nghiên cứu khái niệm từ trong lịch sử hiện thực để chỉ ra đời sống của riêng nó, nêu lên sự liên hệ của nó với quá khứ và tương lai, đồng thời phải nghiên cứu khái niệm trong tính hệ thống, nghĩa là nghiên cứu sự tác động của khái niệm trong chuỗi của nó và sự tác động của nó tới các chuỗi khái niệm khác.

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Tư duy

    02/06/2014B. B sưu tầmCó 3 con chim đậu trên một cành cây. Người thợ săn bắn rơi 1 con, hỏi còn lại mấy con?
  • Khái niệm với tính cách một vấn đề triết học

    20/09/2006Bùi Thanh QuấtKhái niệm là một trong số những thuật ngư được sử dụng rộng rãi trong sách báo khoa học. Chúng ta cần phải biết "Khái niệm là gì?”. Câu hỏi, Khái niệm là gì? trước hết là câu hỏi của triết học. Vấn đề triết học này tuy đã được đặt ra và phân tích trong các sách giáo khoa về logic học, lý luận nhận thức, phép biện chứng, nhưng hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau....
  • Tư duy hệ thống

    25/04/2006Ngô Trung ViệtNhân loại đã thành công qua thời gian trong việc chinh phục thế giới vật lý và trong việc phát triển tri thức khoa học bằng việc chấp thuận phương pháp phân tích để hiểu vấn đề. Phương pháp này gồm bẻ vấn đề thành các cấu phận, nghiên cứu từng phần cô lập và rồi rút ra kết luận về cái toàn thể. Loại tư duy tuyến tính và máy móc này đang ngày một trở nên không hiệu quả khi đề cập tới các vấn đề hiện đại...
  • Nghịch lý của tư duy

    20/04/2006Phạm Anh100% các DN đều biết được tiện ích cũng như giá trị kinh tế to lớn do công nghệ thông tin mang lại. Đó là nơi quảng bá hình ảnh DN, thương hiệu và sản phẩm. Thế nhưng, có tới 91,9% số DN không quan tâm tới thiết kế, xây dựng website để "cho thế giới biết mình là ai"...
  • Định nghĩa về tư duy suy luận

    09/07/2005Tư duy suy luận nghĩa là cách suy nghĩ đúng đắn trong việc theo đuổi với tri thức thích hợp và đáng tin cậy về thế giới. Miêu tả cách khác đó là lối suy nghĩ đầy kỹ năng, có trách nhiệm, có suy tư và hợp lý được tập trung vào việc quyết định xem nên tin tưởng hoặc thực hiện điều gì.