Sự kết nối thơ thiền xưa và nay
Trong xã hội hiện đại, con người dường như bị cuốn theo những lo toan, bộn bề của cuộc sống thường nhật. Nhưng không vì lý do đó mà họ đánh mất cảm xúc của mình. Ẩn sâu trong tâm hồn mỗi cá nhân vẫn là "chất nghệ sĩ" mãnh liệt và khi bắt gặp nguồn cảm hứng thì họ có thể làm nên những áng thơ.
Bởi vậy, "Thi Vân Yên Tử" ra đời là kết quả của sự rung động, thăng hoa cảm xúc trước vẻ đẹp cuốn hút của miền đất Phật. Bằng tấm lòng chân thành, tác giả Hoàng Quang Thuận không chỉ viết cho mình mà còn viết cho người, cho đời. Tập thơ như một làn gió mát trong lành, tinh khiết từ tâm hồn thổi đến tâm hồn, mở ra những cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.
Sự tĩnh tâm để hướng vọng về cõi Thiền là cảm xúc chung của mỗi người khi tiếp nhận "Thi Vân Yên Tử". Đó còn là sự liên tưởng đến những vần thơ Thiền trong quá khứ. Bởi lẽ, Phật giáo đã tồn tại song hành và gắn liền với dân tộc Việt Nam hơn 20 thế kỷ.
Qua kinh nghiệm giác ngộ triết lý của đạo Phật và được gạn lọc qua nhiều tầng vỉa của ngôn ngữ thi ca Việt Nam, thơ Thiền đối với kho tàng văn hóa dân tộc đã biểu hiện một sắc thái độc đáo, riêng biệt.
Từ thế kỷ thứ IX chúng ta đã có tác phẩm của Thiền sư Khuông Việt, đến thế kỷ thứ X lại có thơ thiền của Thiền sư Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Huệ Sinh, Mãn Giác, sang thế kỷ thứ XI, XII, Thiền sư Đạo Hạnh, Không Lộ, Diệu Nhân, Huyền Quang… cũng sáng tác nhiều bài thơ Thiền để đời.
Tiếp đó, các Thiền sư phái Trúc Lâm: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Chân Nguyên trong các thế kỷ từ XIII đến XVI nối tiếp phát triển thơ Thiền lưu lại hậu thế.
Thơ Thiền còn được gọi là Kệ và dùng để tụng, ngợi ca nhằm khẳng định giáo lý, kinh nghiệm, truyền tâm pháp cho đệ tử. Hiện nay, các nhà nghiên cứu gọi chung thơ nhà chùa là thơ Thiền nhưng quan niệm về thơ Thiền lại khác nhau.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Hinh, thơ Thiền về hình thức chịu ảnh hưởng Phật giáo, còn nội dung bàn về sinh, tử, vô, hữu, tâm, phật… và mang những rung động thơ ca có tính trần thế. Theo Bùi Công Tuấn, "Thơ Thiền là tư tưởng. Cốt lõi tư tưởng thơ Thiền là giáo lý Phật giáo".
Với Giáo sư Trần Đình Sử thì "thơ Thiền đang còn là một bí ẩn" và phải có ba tính chất: truyền đạt được cách cảm nhận thế giới của Thiền học, bộc lộ được vẻ đẹp của tâm hồn và là thơ của tầng lớp tăng lữ cao cấp, tầng lớp trí thức đặc biệt.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về thơ Thiền nhưng tất cả đều giống nhau ở chỗ cho rằng mọi quan niệm nhận thức thơ Thiền đều xuất phát từ tiêu chí nội dung phản ánh của nó: "Từ việc biểu đạt một nội dung xác định, thơ Thiền lựa chọn cho mình những đề tài, chủ đề phản ánh riêng. Nó không đề cập tới cuộc sống nói chung mà đề cập tới một phạm vi nhất định của cuộc sống có ảnh hưởng Phật giáo. Nó không bộc lộ thái độ của tất cả mọi người nói chung trước cuộc sống mà là thái độ của những con người ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo với cuộc sống hiện thực".
Bìa tập thơ "Thi Vân Yên Tử".
Hôm nay đây, đọc những vần thơ của Hoàng Quang Thuận trong "Thi Vân Yên Tử" ta cảm nhận rõ một con người tuy hình đồng không xuất gia nhưng tâm niệm lại xuất gia. Khi tâm hồn chìm đắm, lắng sâu vào cõi Chân Như thì lúc ấy cốt nhiên cảm xúc sẽ làm chủ và ngự trị. Đó mới là điều trọng yếu làm nên thành công của tập thơ.
Tác giả nhập tâm cùng gió đại ngàn, tiếng chuông chùa, tiếng chim… và thả hồn phiêu lãng với tùng già, hoa đại, ánh trăng… để bắt đầu cuộc hành trình đi vào quá khứ. Vì thế, mỗi bài thơ đều có hình ảnh và dư vị của thơ Thiền xưa.
Tìm về thơ Thiền xưa cũng có nghĩa là đến với văn học Phật giáo. Thực ra văn học Phật giáo "không hình thành một dòng văn thơ riêng biệt, dù trong một giai đoạn hay suốt chiều dài lịch sử văn học nước nhà" nhưng những đóng góp quan trọng của nó đối với văn học Việt Nam nói chung và với cuộc sống của con người nói riêng là điều không thể phủ nhận.
Xuyên suốt trong tiến trình tồn tại, thơ Thiền đã bao quát một dung lượng rộng lớn trong việc thể hiện triết lý của Đạo phật và tâm hồn, tình cảm của con người. Đó là sự ca ngợi con người siêu việt, thăng hoa vào linh không bằng đốn ngộ, đồng thời cũng biểu hiện ý thức về sự hiện hữu của con người theo quan điểm triết học Phật giáo.
Những quan điểm ấy giúp con người có thái độ điềm nhiên trước cái chết, trước sự tàn phai biến ảo của cuộc đời. Vì vậy, thơ Thiền đã đem đến những tâm hồn yêu đời, vui sống chan hòa giữa chốn đồng quê, sống có trách nhiệm với khát vọng tiêu dao.
Đó chính là giá trị nhân bản sâu sắc mà các tác giả Thiền sư - thi sĩ gửi gắm tạo nên bóng dáng con người với những phẩm chất tốt đẹp, có ý chí, nghị lực và niềm tin mãnh liệt vào bản thân, có trái tim yêu thương, biết rung động sâu xa, tinh tế trước vẻ đẹp của từng nhành cây, ngọn cỏ.
Phải chăng các nhà sư xưa thường trụ trì nơi thâm sơn yên tĩnh nên họ dễ hòa hợp với thiên nhiên, coi thiên nhiên như một phương giải thoát? Biểu tượng thiên nhiên được xem như là các tín hiệu thẩm mỹ đã cho thấy tâm hồn các thiền sư - thi nhân hướng về thiên nhiên thanh sạch, đồng thời góp phần hóa giải các nội dung giáo lý vốn quy phạm, khô khan.
Ngoài xu thế tu chứng, giải thoát bằng cách hướng về thiên nhiên, để lòng thanh thản hòa hợp với rừng suối, tiếng chim, trăng thanh gió mát… thì chính các thiền sư lại đạt đạo ngay trong cuộc sống thường ngày. Hoàng Quang Thuận cũng đồng điệu với người xưa trong cảm hứng sáng tác và làm nên những bài thơ đầy rung cảm khi đến với thiên nhiên, đến với Yên Tử - miền đất Phật linh thiêng bao đời của người Việt:
Đất Phật cõi thiêng đầy bí ẩn
Danh sơn Yên Tử Trúc Thiền Lâm
Ta muốn về đây nơi cảnh cũ
Yên Trung thủy mặc nước trong ngần
(Suối tắm)
Tại đây, tác giả với mạch cảm xúc dạt dào đã trở thành một nhà hướng dẫn giới thuyết cho chúng ta về thiên nhiên và con người Yên Tử. Nhưng lời giới thuyết đó không khô khan mà được kiến tạo bởi những vần thơ trầm tĩnh, đưa đến bao cảm xúc trong lòng người đọc.
Đến với "Thi Vân Yên Tử" ta như lạc vào một thế giới trong lành, và tương cảm cùng với niềm hoài cổ của tác giả. Đó là sự hoài niệm về quá khứ, về những chặng đường khổ hạnh để tu thành Phật của vua Trần Nhân Tông. Trong 143 bài thơ thì Hoàng Quang Thuận đã dành một phần lớn để viết về vua Trần Nhân Tông với một tình cảm thành kính. Có lẽ, cách sống "tốt đời đẹp đạo" của ông Tổ phái Trúc Lâm đã tạo nên ấn tượng sâu sắc trong tâm tưởng tác giả và trở thành mạch ngầm chắp cánh cho những suy tư, liên tưởng:
Dùng tâm quy tụ được nhân tâm
Hưng thịnh triều Trần được lòng dân
Trọng người nhân hiếu tôn hiền sĩ
Đạo Phật thịnh hưng nhất đời Trần
(Lòng dân)
Vì thế mà Hoàng Quang Thuận phát hiện ra sự thân thuộc, hòa nhập ngay chính giữa thiên nhiên và con người Yên Tử. Chốn thiêng liêng này dường như có một phép mầu nhiệm kỳ giúp con người rũ bỏ hết bụi trần và tĩnh tâm giao cảm với vạn vật.
Với Thiền, ngôn ngữ là một chướng ngại hơn là một phương tiện tối ưu. Các thiền sư chỉ dùng nó trong trường hợp bất đắc dĩ để nói pháp, để khai ngộ cho đệ tử. Khi đó, ngôn ngữ xuất hiện với ý chỉ phải siêu xuất chính nó trong tâm thức người tiếp nhận. Hoàng Quang Thuận không phải một thiền sư mà là một nhà khoa học nhưng bằng tâm hồn và tình cảm nhân sinh đã viết nên những vần thơ đậm chất Thiền.
"Thi Vân Yên Tử" không chỉ viết về thiên nhiên đơn thuần mà qua đó để ca ngợi những tấm lòng cao thượng yêu nước, thương dân. Hoàng Quang Thuận đi sâu vào cảnh trí và xuất phát từ những tích xưa để nói lên quan niệm triết lý về cuộc sống, về tình yêu và lòng từ bi bác ái đối với đồng loại. Tất cả đều hướng đến sự bao dung nhằm làm cho cuộc sống của con người trở nên trong sạch hơn, tốt đẹp hơn.
Chính tác giả đã cảm nhận sâu sắc "sự khuây khỏa trong cảnh núi thiên nhiên" và tìm thấy niềm an ủi, thanh tịnh, giải thoát. Thơ Thiền xưa, vang vọng về như tiếng gió ngàn, như tiếng chuông ngân, ngân mãi vào tâm hồn, lắng đọng những gì thanh cao nhất, đẹp đẽ nhất của cuộc đời, của tình người. "Thi Vân Yên Tử" đã là điểm gặp gỡ, hòa chung với thơ Thiền xưa trong việc chuyển tải giá trị nhân văn cao cả.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn TrọngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất Thịnh