Thơ hay là cái chết của thời gian
Em ở đâu đó sau tất cả những thứ này:
Ngôn ngữ của bụi
Màu sắc của chiều tà.
Về thơ như là một tổ chức ngôn ngữ quái đản
Tiểu luận Thơ là gì là một bài viết rất đặc trưng cho phong cách của ông Phan Ngọc: nhiều tâm huyết nhưng cũng nhiều võ đoán. Suốt bài viết với giọng cực kỳ tự tin này lấp lánh đây đó những nhận xét sâu sắc bên cạnh những từ ngữ và thuật ngữ cố tình lạ tai gây cảm giác khó chịu: “Quái đản”, tính thao tác”, “sự thức nhận”… (Tôi xếp vào loại này cả những từ to tát không cần thiết khác như vượt gộp", "thao tác luận"... rất nhiều trong các bài viết của ông). Mặc dù thú vị, bài viết này, theo tôi, có nhiều điểm chưa thích đáng, cả trong các nhận định lẫn trong thao tác khoa học. Sau khi đưa ra những đòi hỏi cho một định nghĩa thơ là :
1. Có giá trị phổ quát, tức là áp .dụng cho mọi hiện tượng gọi là thơ trên trái đất này, bất chấp ngôn ngữ, thời gian. tập quán, trường phái...
2. Mang tính hình thức, giúp người ta nhận diện được ngay thơ để làm thơ, đọc tho, giảng thơ có kết quả" và khẳng định: "Các công trình ngôn ngữ học nước ngoài như tôi theo dõi, quan tâm, không phải tới điểm thơ là gì mà cái nên thơ (lepoétique) là gì", ông đưa ra định nghĩa của mình: "Thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và, phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức này.
Ông giải thích từ “quái đản" như sau:
"Nói rằng hình thức tổ chức ngôn ngữ của thơ hết sức quái đản là nói rằng trong ngôn ngữ giao tiếp không ai tổ chức ngôn ngữ như thế. Trong' ngôn ngữ hằng ngày, chẳng ai tổ chức ngôn ngữ thẹo âm tiết, vần, nhịp, khổ, số câu, niêm luật... hết".
Trước hết, tác giả sử dụng cụm từ "như tôi theo dõi" là để giảm bớt tính chất võ đoán của kết luận. Nhưng nó vẫn còn đó: rất nhiều công trình ngôn ngữ học, như các từ điên giải nghĩa từ điển Oxford hay Larollsse rõ ràng là những công trình ngôn ngữ học mà chắc chắn là một dịch giá cỡ Phan Ngọc không thể không biết - đều đưa ra định nghĩa thơ. Hẵng khoan bàn chuyện đúng sai, tôi chỉ lưu ý rằng ờ đây tác già uyển chuyển dẫn từ một nhận xét chủ quan ("như tôi theo dõi",) sang một kết luận có vẻ khách quan rằng vấn đề nhơ là gì" chưa được ai trước ông nghiên cứu. Ở đây có vấn đề ngôn ngữ. Theo tôi, ông Phan Ngọc dịch từ "le poétique" thành "nên thơ" là không hoàn toàn chính xác. "Le poétique" là một tính từ được danh từ hoá, đúng hơn nó có nghĩa là “bản chất thơ", “nên thơ", "đặc tính của thơ", tức là cái làm cho một văn bản là thơ, và đúng hơn nữa phải dịch là "Thơ". Điêu này cũng tương tự như "le beaut" có nghĩa là "cái đẹp" chứ không phải là "có vẻ như là đẹp", hay "le fantastique" là "cái kỳ ảo", "sự kỳ ảo" chứ không phải là "có vẻ kỳ ảo". Trong tiếng Việt, từ "nên thơ" hàm nghĩa "có vẻ thơ nhưng không phải là thơ", gần giống từ "thị vị". .như khi ta nói, phong cảnh nên thơ". Vì thế định nghĩa "le poétique" chính là định nghĩa thơ chứ không phải là định nghĩa cái nên thơ. Ví dụ, người ta có thê áp đụng mô hình: "Thơ là một văn bản mang đặc tính của thơ. Đặc tính của thơ là ..."
Ở đây tác giả đã rơi vào cái bẫy dịch thuật do chính ông tạo ra.
Chỗ khác, ông khẳng định rằng hình thức cân đối tạo nên hàm nghĩa "hiện tượng chung mang tính chất thói quen thường gặp trong xã hội"- rằng hàm nghĩa này "nằm trong hình thức câu, ở đâu có hình thức cân thì có nghĩa ấy" và ông lấy câu "Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng" làm dẫn chứng.
Tôi nghĩ rằng ở đây có sự nhầm lẫn. Câu dẫn trên là một thành ngữ, và cái hàm nghĩa ông Phan Ngọc nói đến chính là hàm nghĩa của thành ngữ đó. Điều này cũng tương tự như khi ta dẫn ra một điển tích. Và ta có thể nói rằng thành ngữ cũng là một dạng điển tích. Khi ta nói: "Anh ta vừa tậu được một con ngựa thành Troy" thì đâu phải là nói về con ngựa thành Troy! Trên thực tế, có vô số cấu trúc cân đối hoàn toàn không làm nảy sinh ra hàm nghĩa mà ông Phan Ngọc mô tả. Hãy thử xét những câu nói trong đời sống hàng ngày như : "Các bạn nam đứng bên trái, các bạn nữ đứng bên phải". Hãy thử xét câu đối, như : "Kia mấy cây mía; Có vài cái vò". Ta cũng có thể dẫn ra những câu văn biền ngẫu trong văn chương Việt Nam và 'Trung Quốc. Chúng không hề làm cho "nghĩa của thông báo" lập tức thay đổi như khẳng định của ông Phan Ngọc.
Bây giờ ta xem xét chính định nghĩa của ông. Chẳng cần phải mất nhiều công sức cũng có thể thấy rằng định nghĩa này không chặt chế. Không chặt chẽ bởi nếu điều kiện.đủ để một văn bản là được gọi là thơ là có "tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và, phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức này" thì một câu đối - mà tổ chức ngôn ngữ còn quái đản hơn nhiều: luôn luôn chỉ có hai câu, đối nhau cả về từ loại, ngữ nghĩa, ngữ âm, điển tích đến những trò chơi chữ...; và cũng "bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và, phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức này" - có phải là thơ không? Và, trái lại, những bài thơ tự do, nhất là những bài thơ văn xuôi, với tổ chức ngôn ngữ giống hệt những bài văn xuôi, có phải là thơ không?
Xin bàn đôi chút về cách giải thích từ "quái đản" của ông. Mọi ngôn ngữ sử dụng trong những lĩnh vực khác nhau đều có những nguyên tắc riêng mà trong ngôn ngữ giao tiếp không ai tổ chức ngôn ngữ như thế. Liệu có ai trong cuộc sống hàng ngày luôn luôn nói ở ngôi thứ ba số ít hay không? Liệu có ai nói bằng nhiều ngôi và nhiều vài, liên tục trong hàng trăm, thậm chí hàng ngàn trang không?
Đó là tôi chưa nói đến thứ văn biền ngẫu. Đó là tôi chưa nói đến văn vần trong truyện nôm. Đó là tôi chưa nói nên thứ văn chương của những nhà tiểu thuyết mới ở Pháp. Tôi xin lỗi các dịch giả khi phải nhắc lại một điều sơ đẳng là trong tiếng Pháp, khi viết tiểu thuyết người ta thường dùng động từ ở thì quá khứ đơn giản (passé simple) còn trong cuộc sống hàng ngày người ta dùng quá khứ phức hợp (passé composé). Vậy tô chức ngôn ngữ trong tiểu thuyết cũng hết sức quái đản, trong ngôn ngữ giao tiếp không ai tổ chức ngôn ngữ như thế. Và tiểu thuyết, tôi giả thiết đó là một cuốn tiểu thuyết hay, cũng "bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và, phải suy nghĩ". Cuốn tiểu thuyết ấy có phải là thơ không?
Bài viết còn nhiều lập luận không chặt chẽ, khiên cưỡng thậm chí giả tạo khác. Chẳng hạn khi ông nói vê "thơ tự do nhìn như văn xuôi":
"Nhà thơ bỏ sự gò bó bên ngoài về hình thức, không phải để quay trở về văn xuôi, mà chấp nhận những gò bó khác, ở cấp độ cú pháp và từ vựng. Bài thơ của anh ta phải mới lạ về nội dung tư tưởng và tạo nên những liên hệ tư tưởng bất ngờ, do cách dùng chữ mang tính nên thơ. Tóm lại, đây vẫn là một cách tổ chức ngôn ngữ khác thường. Tại sao nội dung tư tưởng mới lạ và những liên hệ tư tưởng bất ngờ lại "do cách đùng chữ mang tính nên thơ", nhất là trong một văn bản "như văn xuôi" được? Một nội dung tư tưởng mới lạ có thể được biểu đạt chẳng cần cái tính nên thơ để mới lạ. Và thế nào là tính nên thơ? Phải chăng ông Phan Ngọc định nói đến sự mượt mà? Hay cách chơi chữ và những thủ pháp đại loại như thế? - Nhưng xin lưu ý răng chúng ta đang nói về thơ tự do, thứ thơ "thậm chí có vẻ lủng củng". Ta sẽ nói sao về những bài thơ rất mới mà chỉ dùng những từ ngữ thông thường, hay thậm chí là từ ngữ địa phương, bài Nhớ của Hồng Nguyên hay bài Nhớ máu của Trần Mai Ninh chẳng hạn?
Tôi xin nói thêm một nhận xét cá nhân: trong nhiều trường hợp, khi dịch thơ, những bản địch nghĩa (địch thô) chưa hề có vần, nhịp...lại hay hơn, "thơ" hơn so với bản dịch đã hoàn chỉnh.
Rõ ràng là định nghĩa của ông không thoả mãn được đòi hỏi đầu tiên do chính ông đặt ra là "Có giá trị phổ quát, tức là áp dụng cho mọi hiện tượng gọi là thơ trên trái đất này, bất chấp ngôn ngữ, thời gian, tập quán, trường phái”.
Ảo ảnh của các định nghĩa
Thực ra Phan Ngọc không phải là người đầu tiên thất bại. cũng không phải là người thất bại nặng nề nhất, khi cố gắng định nghĩa thơ. Bài viết của ông chứa đựng những sai lầm rất căn bản và cũng rất phổ thông. Đó chính là lý do khiến tôi lựa chọn bài viết của ông để phân tích.
Trước khi định nghĩa thơ, chúng ta phải xem xét lại chính khái niệm về định nghĩa. Theo tôi, quan niệm về định nghĩa của ông Phan Ngọc là một quan niệm vừa máy móc vừa không tưởng. Khi viết rằng một "Định nghĩa thơ" phải "Có giá trị phổ quát, tức là áp dụng cho mọi hiện tượng gọi là thơ trên trái đất này, bất chấp ngôn ngữ, thời gian, tập quán, trường phái", rằng nó phải "giúp người ta nhận diện được ngay thơ để làm thơ, đọc thơ, giảng thơ có kết quả", ông Phan Ngọc đòi hỏi rằng "Định nghĩa thơ" phải tuyệt đối khách quan, phi lịch sử, chính xác và cụ thể. Liệu một định nghĩa như thế tồn tại hay không?
Chúng ta hãy cùng xem các định nghĩa được thực hiện như thế nào.
Xin lấy một ví dụ rất gần gũi, khái niệm "Nhà văn Việt Nam" và "Nhà văn Pháp". Một nhà văn có cha mẹ ông bà định cư lâu đời trên đất Việt, bản thân anh ta sinh ra và lớn lên trên đất Việt và viết văn bằng tiếng Việt, đĩ nhiên là nhà văn Việt Nam. Nếu anh ta có sáng tác bằng tiếng Pháp, anh ta vẫn cứ là nhà văn Việt Nam, tuy rằng đã bớt Việt Nam đi đôi chút: anh ta là "nhà văn Việt Nam viết tiếng Pháp". Nếu anh ta có cha Việt mẹ Pháp và viết văn bằng tiếng Việt, anh ta nói chung vẫn là nhà văn Việt Nam. Nếu cả gia đình anh ta định cư tại Pháp từ nhỏ và anh ta viết văn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp như nhau, cán cân đã lệch về phía Pháp, dù phần "Việt" trong anh ta vẫn còn đáng kể. Nhưng nếu anh ta viết tiếng Việt rất tồi so với tiếng Pháp, phần "Việt" trong anh ta sẽ chẳng còn lại bao nhiêu. Cuối cùng, nếu cha mẹ ông bà anh ta là người Pháp và anh ta viết bằng tiếng Pháp, dĩ nhiên anh ta là nhà văn Pháp. Đó là chưa kể những tình huống phức tạp hơn: một người có bố Việt, mẹ Pháp, sinh ra ở Trung Quốc nhưng lại lớn lên và mang quốc tịch Hoa Kỳ...
Ta thấy rằng từ hai phía, hai thái cực chúng ta có hai khái niệm lý tưởng: Nhà văn Việt Nam thuần tuý và Nhà văn Pháp thuần tuý, ở giữa hai thái cực đó là vô số những cấp độ trung gian: nhà văn Việt Nam chịu ảnh hưởng của Pháp, nhà văn Việt Nam có một phần dòng máu Pháp, nhà văn Pháp gốc Việt, nhà văn Pháp có một phần dòng máu Việt Nam...
Thực ra đó chỉ là cách mô tả trực quan và giản lược, bởi lẽ còn có rất nhiều yếu tố chính trị, văn hoá, lịch sử, tôn giáo, tâm lý, sinh lý... khác ảnh hưởng đến việc phân loại, khiến cho nó luôn luôn chỉ là tương đối và nhiều khi là không thể nào thực hiện được. Và điều này không phải chỉ là những khó khăn thuần tuý lý thuyết. Tôi từng gặp nhiều người gốc Việt về thăm quê hương mà không biết lấy một từ tiếng Việt. Tôi cũng từng gặp những công dân Hoa Kỳ nói giọng Sài Gòn phẫn nộ vì bị coi là người Việt Nam!
Định nghĩa chỉ có thể tuyệt đối khách quan và rõ ràng trong hai trường hợp. Thứ nhất, nếu nó dựa trên một hay một vài dấu hiệu cụ thể nào đó, ví dụ ta có thể định nghĩa “Người Việt”, như là "người có quốc tịch Việt Nam". Các định nghĩa kiểu này chỉ thoả mãn được đòi hỏi của một ]oại công việc cụ thể, như ở đây là công việc của nhân viên hải quan; Thứ hai, nó dựa trên những tiêu chí mang tính tuyệt đối trong rất nhiều trường hợp là sự đối lập tuyệt đối hai thái cực giả định. Chẳng hạn trong ví dụ trên, ta phải định nghĩa "nhà văn Việt Nam" (đối lập với “Nhà văn ngoại quốc") như là nhà văn có dòng máu thuần Việt, cư trú tại Việt Nam, mang quốc tịch Việt Nam, chỉ viết văn bằng tiếng Việt và chỉ chịu ảnh hưởng của văn hoá Việt Nam... Một định nghĩa như vậy chắc chắn là hết sức triệt để, bởi lẽ chỉ cần anh ta viết một câu thơ, một từ bằng ngoại ngữ, hay thậm chí chỉ cần anh ta chịu chút ít ảnh hưởng của nước ngoài, anh ta đã không còn là nhà văn Việt Nam thuần túy!
Bạn có thể phản bác rằng một định nghĩa lý tưởng như thế sẽ quá trừu tượng và không có lợi ích gì. Tôi nghĩ ngược lại là đằng khác. Định nghĩa đường trong hình học như là một cái gì đó chỉ có chiều dài mà không có chiều ngang, chẳng hạn, là một định nghĩa lý tưởng. Nhưng dù chưa và sẽ chẳng bao giờ có một ai được thấy một đường thực sự, chắc chắn nó không trừu tượng hơn và chắc chắn nó có ích lợi hơn việc định nghĩa đường như là một cái gì đó có chiều dài nhưng thiết diện không vượt quá một số đo cụ thể nhất định. Tại sao như vậy? Ta có thể tham khảo cách lý giải độc đáo của Platon, rằng mọi ý niệm tuyệt đối đã từng tồn tại và ý thức của chúng ta chỉ làm một việc là nhớ lại những gì đã bị lãng quên.
Tôi xin đề xuất một lý giải khác. Tôi cho rằng vấn đề nằm ở chỗ những định nghĩa dựa trên các tiêu chí định lượng chỉ có thể áp dụng cho các khái niệm mang tính định lượng. hoặc những khái niệm cụ thể, hạn hẹp, ví dụ định nghĩa "học sinh giỏi" là học sinh thi đạt từ 8,5 điểm trở lên, người "vị thành niên" là người dưới 18 tuổi hay ví dụ về người có quốc tịch Việt Nam vừa nói ở trên... Những định nghĩa như thế rất có ích trong thực tế: nhưng thường máy móc và không có giá trị phổ quát. Mức điểm để đạt được danh hiệu "học sinh giỏi" tay thuộc vào từng trường. từng thời kỳ và cách tính điểm... Và mọi học sinh đại mức điểm đó đều đoạt danh hiệu học sinh giỏi, nhưng chưa chắc đã là học sinh giỏi thực sự.
Đối với các khái niệm định tính, chúng ta chỉ có thể định nghĩa bằng cách đưa ra những tiêu chí định tính. Chẳng hạn chúng ta có thể định nghĩa “học sinh giỏi" là một học sinh có đầu óc thông minh vượt xa các bạn, luôn luôn hiểu bài và sáng tạo trong suy nghĩ, luôn luôn khiến thầy cô giáo phải hài lòng về kết quả học tập hiếm có của mình...Chắc chắn cách định nghĩa như vậy là khá mơ hồ. Nhưng nhìn nhận một cách tinh táo, chúng ta thấy rằng chính bằng cách ấy mà chúng ta định nghĩa hầu hết các sự vật và hiện tượng: điểm, mặt phẳng, chân không, tổ quốc, hiện tại, cái tốt, cái xấu... và cả tình yêu nữa.
Nhân nói về tính lý tưởng của các định nghĩa, tôi muốn nói thêm đôi điều về định nghĩa "Cái đẹp". Từ nhỏ, tôi đã được nghe rất nhiều người nói rằng cái đẹp có ba thành tố là "Chân", "Thiện", "Mỹ" liên quan với nhau khăng khít. Nhưng Mỹ chính là Đẹp. Tôi không biết ai là người đầu tiên nói đến ba khái niệm này, và cũng không biết có thực là người đó lý giải về chúng như ba thành tố của cái đẹp hay không, nhưng vẫn thường tự hỏi, tại sao Cái đẹp lại bao gồm Cái đẹp và hai cái khác? Mãi sau này, khi đọc Platon, tôi tìm thấy một cách hiểu hoàn toàn khác, trong đó "Chân”, "Thiện", "Mỹ" đúng là liên quan với nhau khăng khít, nhưng hoàn toàn không phải là ba thành tố của Cái đẹp. Quan niệm của ông, thường được hình dung qua cái gọi là Kim tự tháp Platon, có thể tóm tắt như sau: Khi tiếp xúc với một sự vật, cái đầu tiên chúng ta cảm nhận được là những gì có thật. Chẳng hạn, khi gặp một cô gái, chúng ta sẽ nhận biết những đặc điểm có thật ở cô ta, như dáng người, màu mắt, nước da, mái tóc... Từ những đặc điểm có thật đó, chúng ta sẽ rút ra được những đặc điểm nào của đối tượng là tốt là hài hoà, nói cách khác, là "thiện". Ở đây, thiện được hiểu theo nghĩa rộng, như là đúng, hợp lý. Ở trường hợp trên, khi yêu một cô gái cụ thể, người ta sẽ cảm nhận những tính tốt, những điểm hài hoà ở cô. Thế rồi, từ những nét đẹp, tốt ở những đối tượng cụ thể, người ta có thể hình dung về một đối tượng hoàn mỹ với tất cả các đặc điểm tốt đẹp. Một đối tượng được coi là Đẹp nếu tất cả các đặc điểm của nó đều hài hoà, đều tốt, hay đều "thiện". Như vậy, có thể thấy rằng Đẹp là một khái niệm lý tưởng, người ta chỉ có thể cảm thấy, hình dung thấy và dần dần tiếp cận, chứ không bao giờ có thể đạt tới hoàn toàn.
Xin trở lại với vấn đề của chúng ta. Sai lầm của ông Phan Ngọc nằm ở ảo tưởng về một định nghĩa vừa mang tính định lượng và cụ thể lại vừa phổ quát và tuyệt đối trong khi các định nghĩa chỉ có thể phổ quát và tuyệt đối nếu như nó dựa trên những tiêu chí định tính và vì thế luôn luôn mang tính lý tưởng. Thơ ca cũng không phải là ngoại lệ. Chúng ta không bao giờ có thể đưa ra một hay một vài tiêu chí cụ thể để xác định một văn bản có phải là thơ hay không. Cái chúng ta có thể làm là đưa ra định nghĩa thơ thuần tuý, một khái niệm thực ra là lý tưởng, bằng cách đối lập nó với một thái cực khác, một khái niệm lý tưởng khác, mà thôi.
Thơ và truyện
Vậy đối lập với thơ là gì?
Rất nhiều người nghĩ đến văn xuôi. Ông Phan Ngọc, trong bài Thơ là gì vừa nhắc ở trên, cũng vậy. Ông viết: "Ta chỉ nghe nói những lời hoa mỹ về ngôn ngữ này (tức "ngôn ngữ quái đản"-NTL), mà không thấy một sự đối lập thích đáng (pertinent) giữa thơ và văn xuôi.
Ngoài sự không thích đáng của việc sử dụng từ pertinent hoàn toàn không sáng sủa hơn - nếu không nói là tù mù hơn - để giải thích cho từ thích đáng rất sáng sủa và chính xác của. tiếng Việt, câu văn này lại chứa đựng một nhầm lẫn rất phổ thông khác. Thơ dù ở phương Đông hay phương Tây, dù kim hay cổ đều có thể có vần hoặc không vần, truyện cũng không phải lúc nào cũng phải viết dưới dạng văn xuôi - Những truyện Nôm là bằng chứng không thể chối cãi.
Thật ra, cái đối lập của văn xuôi không phải là thơ mà là văn vần, còn cái đối lập của thơ là truyện. Sự đối lập của văn xuôi và văn vần là dựa trên sự khác nhau về tổ chức ngôn ngữ: âm tiết, vần, nhịp, khổ, số câu, niêm luật..., chính là cái mà ông Phan Ngọc gọi là "cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản" còn sự đối lập giữa thơ và truyện mới dựa vào. bản chất của chúng. Ta có thể tham khảo ý kiến của L.I
Timôphêép trong cuốn Nguyên lý lý luận văn học khi ông phân chia văn học thành ba loại: "Loại trữ tình biểu hiện một cách ngắn gọn tâm trạng cá biệt của con người, loại kể chuyện thuật lại cuộc sống của con người trong những biểu hiện ít nhiều phức tạp của nó trong các truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết; kịch không đùng ngôn ngữ tự sự, mà giới thiệu các nhân vật qua những hành động". Trong bài viết Những đường bay của mê lộ tôi đã có ý kiến về cách phân loại này, chỉ xin nhận xét thêm rằng các thể văn gọi là trữ tình và kể chuyện (tự sự) của L.I. Timôphêép rất gần với các khái niệm thơ và truyện mà tôi vừa nói.
Trên thực tế, không bao giờ có thơ hay truyện thuần tuý. Mọi bài thơ đều ít nhiều có tính truyện và mọi văn bản thuộc loại truyện đều ít nhiều có tính thơ. Bây giờ, nếu chúng ta thử thực hiện phép đối lập để phân biệt một văn bản thơ với một văn bản truyện thì phải hiểu rằng chúng ta đang nói đến một văn bản thơ thuần tuý và một văn bản truyện thuần tủy. Theo tôi, sự khác nhau cơ bản giữa truyện và thơ là ở chỗ: ấn tượng thẩm mỹ mà truyện gây nên ở người đọc là ấn tượng “về một quá trình, còn ấn tượng thẩm mỹ mà thơ tạo ra ở người đọc là ấn tượng về một trạng thái. Nói cách khác, ấn tượng thẩm mỹ ở truyện mang tính thời gian, còn ở thơ thì phi thời gian. Chúng ta hãy thử khảo sát bốn tình huống sau đây.
1 Đội bóng đá của những người cùng khổ có tên là "Nước mắt" thi đấu với một đội bóng khác. Một cổ động viên của các cầu thủ có hoàn cảnh không may tuyên bố: "Tôi đứng về phe “nước mắt”.
2. Một nhà cách mạng bênh vực quyền lợi cho những người bị áp bức. ông nói trong một cuộc, trả lời phỏng vấn: "Tôi đứng về phe nước mắt".
3. Một người viết nội dung câu đó dưới một nhan đề:
Để ghi lên mộ chí sau này
Tôi đứng về phe nước mắt.
4. Chúng ta chọn một nhan đề và viết thêm:
Trận đấu
Tôi đứng về phe "Nước mắt". "Nước mắt" thua. Về sau tôi mới biết rằng họ nhận tiền để làm điều đó.
Trong trường hợp đầu. đó là câu thông báo về một thái độ hoặc một hành động cụ thể đối với một đối tượng cụ thể - một đội bóng đá.
Trong trường hợp thứ hai, đối tượng trừu tượng hơn, nhưng nội đung thông báo vẫn là một hành động - thể hiện thái độ bênh vực những người cùng khổ. Cả hai đều chỉ là những thông báo thông thường.
Trường hợp thứ ba là một bài thơ. Và tác giả bài thơ ấy là Dương Tường.
Cái gì làm cho nó trở thành thơ? Rõ ràng trong trường hợp này không phải là vần điệu hay những yếu tố tổ chức ngôn ngữ. Sự khác nhau chắc chắn nằm ở ấn tượng thẩm mỹ mà văn bản tạo ra ở người đọc. Bài thơ của Dương Tường có nói đến một hành động, nhưng đó không còn là một hành động cụ thể, có thật. Và nội dung thật của nó cũng không phải là sự thông báo về hành động ấy nữa. Nội dung thật của nó là một trạng thái tình cảm. Chính cái nhan đề, "Để sau này ghi lên mộ chí' đã xoá bỏ tính cụ thể về thời gian và của cái hành động "đứng về phe nước mắt", biến nó thành ẩn dụ cho một trạng thái tình cảm, hay xa hơn là một nhân cách. Một cảm giác phi thời gian, ta có thể nói vậy. Và nó trở thành thơ.
Trong trường hợp thứ tư, chúng ta có một truyện. Có thể bạn chê nó nhạt nhẽo, nhưng chắc chắn là nó có một câu chuyện, một cốt truyện như ta thường nói. Và cốt truyện ấy được hình thành nhờ một chuỗi các sự kiện nối tiếp nhau theo một trình tự thời gian nào đó. Xin lưu ý rằng trật tự thời gian ở đây là trật tự thời gian tác phẩm, không phải là thứ thời gian tự nhiên mà ta thường nghĩ luôn luôn chảy từ quá khứ qua hiện tại đến tương lai. Thời gian đồng hiện, chẳng hạn, cũng là một thứ trật tự thời gian.
Cũng cần phải nói thêm rằng, một cách tự nhiên, một quá trình phải có nhiều sự kiện, nghĩa là phải trải qua nhiều trạng thái. Tuy vậy, chúng ta có thể lường trước những trường hợp đặc biệt, khi quá trình chỉ có một sự kiện duy nhất. Khi đó nó cũng chính là một trạng thái. Đó chính là nơi thơ và truyện gặp nhau. Tôi biết rằng nói như vậy vẫn còn chưa đủ sáng tỏ. Tôi đề nghị chúng ta hãy khảo sát thêm một ví dụ khác, một bài ca dao, thực ra là một bài thơ dân gian nổi tiếng:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em lấy chồng anh tiếc lắm thay
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không...
Cái đầu tiên chúng ta có thể nhận thấy là bài thơ liệt kê rất nhiều hành động nhưng các hành động này lại chẳng hề thông báo một sự kiện hay quá trình nào. Cái mà những câu thơ này thực sự mang tải là một trạng thái tinh thần: nỗi luyến tiếc đầy chua xót của kẻ thất tình. Thật vậy, hãy thử thay đổi trật tự của các câu, chẳng hạn:
Trầu cay ba đồng một mớ
Nụ tầm xuân xanh biếc nở ra
Nụ tầm xuân nở giữa vườn cà
Anh trèo lên hái hoa cây bưởi
Ngày còn không sao anh không hỏi
Em lấy chồng anh tiếc lắm thay
Hãy bỏ qua sự so sánh bài nào hay hơn bài nào, ta có thể thấy rằng phương án !hứ hai vẫn cứ là một bài thơ, và hơn thế nữa, ấn tượng về nỗi luyến tiếc đầy chua xót của kẻ thất tình gieo vào tâm trí độc giả gần như không hề thay đổi ấn tượng ấy phi thời gian, và vì thế nó vẫn nguyên vẹn cả khi chúng ta chỉ đọc một phần, một câu hay khi chúng ta xáo trộn trật tự các câu như chúng ta đã thấy.
Những điều vừa nói không thể có ở truyện.
Sự đảo lộn trật tự các câu trong một cuốn tiểu thuyết, chẳng hạn, đồng nghĩa với sự huỷ hoại nó. Chúng ta cũng không thể đọc một câu trong một truyện ngắn để cảm nhận cái hay của truyện ngắn ấy. Nếu có một câu hay, thì đó là cái hay của thơ. Truyện, tôi xin nhắc lại, là nghệ thuật ngôn từ dựa trên cảm giác của chúng ta về quá trình, và vì thế thời gian luôn luôn hiện diện.
Tất nhiên, những nghiên cứu của chúng ta là những nghiên cứu đã được mô hình hoá. Chúng ta cũng không được nhầm lẫn giữa bài thơ thuần túy với bài thơ hay. Một ngôi nhà thuần tuý khác hẳn một chiếc xe thuần tuý. Nhưng điều đó không đảm bảo rằng một ngôi nhà thuần tuý không thô kệch, xấu xí, cũng như nó không hề ngăn cản chiếc xe - nhà của các kiến trúc sư Hoa Kỳ trở thành một kiệt tác kiến trúc. Thêm nữa, chúng ta cũng cần lưu ý rằng văn học bao giờ cũng có một xu hướng hoà trộn các thể loại, các trào lưu, các thủ pháp và cả các chủ đề.
Có thể các bạn sẽ đòi hỏi tôi đưa ra những ví dụ trực quan về thơ và truyện, kiểu như sợi chỉ căng thẳng là ví dụ trực quan về đường mà tôi đã nói. Tôi cho rằng truyện trinh thám là thể loại gần với truyện thuần tuý nhất. Ở đó cốt truyện ngự trị. ở đó thời gian là chúa tể. Còn thơ? Tôi cho rằng các nhà thơ siêu thực có thể là một ví dụ không tồi, cho dù theo tôi, di sản thơ của họ không phải là nhiều kiệt tác. Ta cũng có thể chọn nhiều ví dụ khác, như bài thơ Bóng chữ của Lê Đạt, khi nhà thơ nói mà không kể về bất cứ điều gì cụ thể. Thi ca là hiện tại, đó là lời của Oetavio Paz dưới ngòi bút Charles Simic. Tôi tin rằng Paz đã nói hơi khác: thi ca là khoảnh khắc ngừng lại của thời gian.
Thời gian ngừng lại, hay nói đúng hơn: thời gian đã chết. Nhưng đó là một cái chết màu nhiệm, chết để hoá thân thành thi ca. Và, nếu được phúc lành của Chúa, chết để có thể hoá thành vĩnh cửu.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc Hiếu“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngCon người hiểm độc
01/01/1900Phạm QuỳnhCơ hội thứ tư - toàn cầu hóa
18/04/2004Nguyễn Trần BạtBa yếu tố làm nên thành công của doanh nhân
29/07/2005Nguyễn Trần Bạt