Tự do - Tự lập - Tự trọng là những giá trị làm người số một
Nguyễn Trần Bạt (NTB): Xin chào tất cả các bạn! Tôi không phải là một nhà hàn lâm, tôi không đi tìm kiếm cái cảm giác thần phục của sinh viên đối với mình như là một nhà hàn lâm mà tôi đang cố gắng làm trẻ mình, làm mới mình, làm sinh động hoá trí khôn của mình thông qua giao lưu với các bạn. Giao lưu là một nghệ thuật hết sức tích cực, nghệ thuật đấy tạo ra tất cả mọi sự phát triển vốn có của đời sống tinh thần. Vì thế cho nên, tôi là người chống lại tất cả những gì áp đặt lên hoạt động này, nhất là với sinh viên. Trong công ty của tôi có khoảng 300 nhân viên rải rác ở Hà Nội, Sài Gòn, Cần Thơ. Cách của tôi là khuyến khích sự sáng tạo, khuyến khích tự do đối với các nhân viên của mình, tự do đến làm việc cho tôi nếu anh cảm thấy tự tin và tự do rời công ty của tôi nếu anh cảm thấy bất hạnh, anh cảm thấy không hạnh phúc. Vì thế, hôm nay, tôi sẽ không giảng gì, tôi sẽ không làm gì như một nhà hàn lâm mà tôi sẽ kể với các bạn về việc tôi hình thành doanh nghiệp của tôi như thế nào Tuy không là nhà hàn lâm nhưng tôi có viết một vài cuốn sách cũng gây được sự chú ý và thậm chí nổi giận của nhiều người. Trong xã hội của chúng ta, chỉ nguyên việc gây ra được một sự nổi giận không chết người đã là có giá trị tích cực. Tất nhiên, những sự nổi giận chết người thì không khôn ngoan nhưng sự nổi giận cần thiết tạo ra sự sinh động của cuộc đời mình thì tôi nghĩ là chúng ta nên làm, bởi vì chúng ta phải chứng tỏ chúng ta còn sống, còn sống thì mới làm được cho người khác nổi giận một chút. Nói như vậy có nghĩa là khi các bạn đặt câu hỏi cho tôi thì cũng không cần thiết phải né tránh những điều mà các bạn cho là phạm húy hoặc cho là có chất lượng hàn lâm. Tôi không cho mình là một nhà hàn lâm nhưng tôi nghĩ rằng tôi có thể đối thoại với các bạn ở một chừng mực phổ thông của khái niệm này.
Cái đáng giá nhất trong cuộc đời của tôi không phải là tạo ra một công ty mà là tạo ra được một nghề. Tôi là người Việt Nam đầu tiên tạo ra một loại nghề nghiệp, đó là nghề tư vấn về đầu tư và phát triển các quan hệ thương mại. Công ty này được thành lập trước khi Chính phủ ban hành nghị định 139/HĐBThướng dẫn thi hành luật đầu tư nước ngoài. Nó ra đời tại Bộ Khoa học và Công nghệ, trước khi thành lập Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư một năm. Vào thời điểm tôi bắt đầu hoạt động có nhiều nhà lãnh đạo gọi cái nghề mà tôi đang làm bây giờ là nghề cai đầu dài, nghề môi giới. Và đã có một thời Chính phủ rất nổi giận vì có một nghề nghiệp mà mình không phân loại và không kiểm soát nó được. Khi tôi lập công ty đầu tiên về lĩnh vực này, tôi phải thuyết phục được họp báo. Có 27 vị đại sứ đã đến dự cuộc họp báo của tôi, trong đó tôi có mời cả Bộ trưởng là giáo sư Đặng Hữu, thầy giáo dạy tôi tốt nghiệp đại học. Tôi nhớ rằng Đại sứ Liên hiệp Vương quốc Anh lúc bấy giờ hỏi tôi: "Nếu chúng tôi cần dứa, ông làm thế nào để cung cấp dứa cho chúng tôi?" Tôi nói rằng: "Tôi sẽ phải nghiên cứu xem tỉnh nào có dứa, sau đó tôi sẽ thông báo với các công ty của ngài rằng nơi nào có dứa, dứa đấy sẽ chín vào mùa nào và hệ thống vận tải từ các cánh đồng dứa ra ngoài thuận lợi như thế nào, giá cả của nó và các điều kiện khác..." Sau đó tôi có nghe Bộ trưởng nói rằng "Đến Bộ cũng không nắm nổi việc ấy thì làm sao mà một công ty chỉ có 3, 4 người làm được." Cách đây mấy năm, khi còn làm Trưởng ban Khoa giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, giáo sư có mời công ty của chúng tôi đến trình bày về vấn đề làm thế nào để quản lý được toàn bộ quá trình bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam. Tôi đã uỷ quyền cho các Phó Tổng giám đốc của tôi đến trình bày. Buổi nói chuyện ấy rất được các nhà lãnh đạo của chúng ta hoan nghênh và nó góp phần làm tiền đề cho việc Quốc hội của chúng ta phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ.
Cũng phải nói với các bạn về một số nét xuất xứ của tôi. Tôi là kỹ sư cầu đường, tôi tốt nghiệp Đại học Bách khoa, Khoa Xây dựng. Tôi vào đại học năm 1964, tốt nghiệp năm 1972, lý do là giữa đó có quãng thời gian đi bộ đội. Sau đó tôi lại vào bộ đội một lần nữa với tư cách là sĩ quan công binh, làm việc tại Cục công binh 559, thuộc Binh đoàn Trường Sơn. Tôi rất tự hào khi tôi đến Mỹ kể câu chuyện tôi đã từng tham gia làm đường Hồ Chí Minh. Không có một người Mỹ nào lại ghét một người đã từng làm đường Hồ Chí Minh để tạo ra tiền đề giao thông vận tải cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tôi đã kể lại chuyện ấy một cách rất đàng hoàng tại New York, tại Washington, tại Los Angeles, tại San Francisco, cả tại trường Harvard nữa. Năm 1976, tôi rời khỏi quân đội để về làm việc tại Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải, và trở thành quyền chủ nhiệm một bộ môn cho đến khi tôi rời Viện vào năm 1985, với một lý do hết sức riêng tư. Lý do riêng tư ấy gồm hai khía cạnh. Vào khoảng thời gian ấy, tôi đi thi làm nghiên cứu sinh. Các bạn bây giờ không biết được rằng thi nghiên cứu sinh vào cái thời ấy là cuộc thi khủng khiếp đến mức nào. Số lượng những người dự thi trong một cuộc thi như vậy ngồi kín hội trường chính của trường Đại học Kinh tế Quốc dân nhưng số lượng người thi đỗ chắc chắn không bằng một dãy ngồi trong phòng học này. Tỷ lệ thi đỗ vào khoảng 1/100. Tôi đã thi đỗ, thế nhưng đến khi đi thì người ta không cho đi vì cho rằng tôi là kẻ kiêu ngạo. Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí, vào lúc ấy, tôi có một đứa con gái sinh năm 1974, nó bị căn bệnh không sống được, đó là bệnh máu trắng. Thế là tôi đành từ bỏ việc đi nghiên cứu sinh. Để chữa căn bệnh ấy trong những điều kiện hết sức hạn hẹp ở Việt Nam, mỗi một ngày cũng cần có khoảng 30 đô la tiền thuốc. Với tư cách là một cán bộ cấp phòng (Bộ môn của tôi tương đương với một phòng) thì không có cách gì để có đủ tiền cả và tôi nghĩ là cần phải kiếm ra tiền. Để cứu con mình tôi buộc phải từ bỏ sự nghiệp nghiên cứu khoa học của mình và đi làm kỹ sư xây dựng, rồi về phụ trách công việc xây dựng tại Cục Sở hữu Công nghiệp Việt Nam (bây giờ là Cục Sở hữu Trí tuệ Việt Nam). Các bạn cũng biết rằng tham nhũng bây giờ tạo ra sự giầu có, nhưng tham nhũng vào đầu những năm 80 thì chỉ cải thiện đời sống. Không biết định nghĩa thế nào là tham nhũng nhưng tôi cảm thấy cuộc sống của mình tốt hơn một chút khi tôi làm việc trực tiếp. Các nhà khoa học thì không có công tác phí vì các nhà khoa học chẳng đi đâu bao giờ, nhưng làm nghề xây dựng thì hay phải đi nên có công tác phí và có sự chắp vá của tất cả những gì gom góp được nhờ sự phát hiện các kẽ hở của công tác quản lý nhà nước để có thể sống được. Thế là tôi cũng có đủ tiền thuốc để chữa bệnh cho con nhưng không cứu được nó. Tôi mất con gái của tôi vào cuối năm 1985. Lúc bấy giờ giá một ca mổ để ghép tuỷ ở Paris là 200.000 fran, ở Budapest là 30.000 đô la. Tôi không thể có số tiền ấy và tôi đành để mất đứa con gái. Phải nói là cho đến bây giờ, vĩnh viễn không bao giờ vết thương ấy được liền trong đời sống tinh thần của tôi. Tôi có nói với con gái tôi rằng tôi là một người cha tồi vì không cứu được con. Tôi không có tiền, tôi không sáng tạo ra cái gì để có thể giúp con mình sống được. Lúc đó tôi có thêm hai đứa con trai nữa. Tôi nghĩ rằng cần phải lao động, cần phải sáng tạo, không thể trông đợi vào những kinh nghiệm mà mình đã có cho đến lúc ấy. Cho nên tôi tạo ra nghề này.
Những ý tưởng đầu tiên để làm nghề này xuất hiện khi tôi bắt đầu đọc cuốn "Nhà tư bản tài chính"của Theodore Dreiser. Tôi nghe nói rằng Lenin cũng đọc quyển ấy. Nhưng Lenin đọc quyển ấy để làm Cách mạng Tháng Mười còn tôi chỉ làm cuộc cách mạng nho nhỏ trong đời sống cá nhân của tôi thôi. Tôi cứ thấy người ta bảo Lenin thích gì là tôi thích thử xem sao. Ví dụ, có hai bản giao hưởng mà Lenin thích nghe là Appassionata và Moonlight, tôi đã nghe thử và cố gắng hình dung ra cái tâm trạng nào mà một người như Lenin có thể thích chúng. Tôi nghĩ rằng, đi tìm cái quy luật tinh thần của mỗi một vĩ nhân trong cuộc đời chính là cách tốt nhất để chúng ta dẫn mình đến những thử nghiệm tinh thần của mình. Lúc trẻ, tôi đọc quyển "Tuổi trẻ của Karl Marx”,phải nói rằng tôi thấy tinh thần của cậu bé Marx lúc 17 tuổi làm thắp sáng đời sống tâm hồn của mình. Có lần, khi một cán bộ cao cấp hỏi tôi: "Bây giờ, khi chúng tôi làm việc với bọn trẻ, chúng luôn luôn phê phán chúng tôi rằng các khái niệm có vẻ cao thượng như yêu nước, yêu thế nọ, thế kia là mâu thuẫn với thực tế của cuộc sống. Theo anh, tôi phải giải thích như thế nào với bọn trẻ để có thể xuôi được?" Tôi nói rằng, chỉ nguyên việc anh đặt ra vấn đề giải thích để cho nó xuôi đã là hỏng rồi. Bởi vì con người cần cả những cái cụ thể như là tiền lương, nhưng con người cần cả những cái cao thượng thắp sáng tâm hồn. Khi đói kém chúng ta có thể tạm quên những thứ cao thượng đi, nhưng khi no đủ rồi chúng ta bỗng nhiên thấy thiếu cái đấy mà chúng ta đi tìm thì có khi không tìm lại được nó nữa.
Bắt đầu từ việc cứu đứa con, từ việc bảo hộ đời sống vật chất cụ thể của những đứa con của mình, tôi đã tạo ra một nghề mà ở trong nước hiện nay có khoảng 300 công ty thực thi các dịch vụ như thế, trong đó vào khoảng 1/3 số công ty này là do cán bộ từ công ty của tôi tạm biệt tôi để bắt chước tôi. Công ty này là một công ty lớn, cái thứ hai sau nó không so được với nó. Chúng tôi có khoảng độ 300 cán bộ, cung cấp dịch vụ cho khoảng 20% toàn bộ thị trường các dự án ODA ở Việt Nam, khoảng 15% thị trường các đầu tư FDI ở Việt Nam, cung cấp những dịch vụ luật sư cho những giao dịch mua bán rất quan trọng như là mua vệ tinh đầu tiên của nước CHXHCN Việt Nam, làm hợp đồng cho các giao dịch mua bán hoặc thuê mua các máy bay Boeing và máy bay Airbus của Vietnam Airlines. Phải nói rằng chúng tôi sử dụng một lực lượng lao động cố định khá lớn nhưng cái dòng lao động đi qua chúng tôi cũng lớn. Hôm qua tôi có tổ chức một buổi hội thảo mà tôi rất tự hào bởi vì một trong những người trình bày chính tại hội thảo ấy là Tổng giám đốc ngân hàng ANZ Việt Nam đã từng là cán bộ của tôi. Khi còn làm cho tôi, chị ấy là thư ký, là phiên dịch cho tôi, người giúp tôi đối thoại với tiến sĩ Henry Kissinger, với các bộ trưởng Úc vào đầu những năm 90. Chị ấy giỏi tiếng Anh đến mức khi tôi dẫn chị ấy đến nói chuyện tại trường Harvard, kết thúc buổi nói chuyện, ông hiệu trưởng Havard Business School bảo với tôi rằng nếu ông không phản đối thì tôi cấp ngay cho cô ấy một học bổng. Nhưng chị ấy kiêu ngạo đến mức không thèm xin học bổng tắt như vậy mà chị ấy thi và đỗ vào trường Wharton, Đại học tổng hợp Philadelphia, một trong những trường dạy về tài chính và tiền tệ tốt nhất thế giới. Tất cả những nhà quản lý của các băng tội phạm quan trọng nhất trên thế giới đều được đào tạo ở đấy. Ngũ đại gia đình ở New York chỉ tuyển người quản lý tài chính từ trường này. Các ngân hàng đầu tư lớn như Morgan Stanley, JP Morgan cũng lựa chọn các kế toán trưởng từ đấy. Sau 10 năm chị ấy trở thành tổng giám đốc ngân hàng ANZ Việt Nam, với mức lương hàng trăm nghìn đô la một năm. Người Việt Nam chúng ta cứ phong nhau tổng giám đốc ào ào, nhưng mà thu nhập của họ cũng chỉ bằng 1/5 thu nhập của tổng giám đốc ngân hàng ANZ ở Việt Nam thôi. Cho nên phải nói rằng, khi chúng ta làm việc, chúng ta phải rất thực tế.
Tôi đã giới thiệu sơ lược về mình. Tôi muốn bắt đầu buổi giao lưu hôm nay. Tôi có mang theo một số tài liệu, nếu tôi giở ra để giảng về cải cách chắc là tôi sẽ nói rất hay nhưng mà các bạn sẽ không nghe đâu, cái mà các bạn bây giờ đang sôi sục lên là mình sẽ làm gì sau khi học. Tôi có cậu con út đang học năm thứ ba tại khoa Philosophy, Politics and Economics (PPE), trường Kinh tế London. Tôi biết được tâm trạng của nó bây giờ là nó bắt đầu nghĩ xem sau khi ra trường mình làm gì, học tiếp như thế nào, đi thực tập ở đâu. Nhưng cái đó cũng chỉ là phần cơ bản thôi, còn phần chính là, liệu ta chọn ai làm hình mẫu cho sự phát triển cá nhân ta, chọn Goeroge Soros hay là Bill Gates. Cậu ấy nói rằng con rất tự hào bởi tất cả các bạn sang học khoa Auditing, khoa Marketing, còn con học khoa PPE, khoa của con có George Soros. Tất cả những thứ lãng mạn như vậy làm sôi sục tâm hồn các bạn, cho nên tôi chấm dứt nói chuyện một cách chủ động ở đây, các bạn cứ chất vấn tôi như một kẻ đã trót dại ba hoa một chút về mình với các bạn, để tạo ra cho các bạn cảm giác thách thức trong sự đối thoại. Tất cả mọi sự đối thoại có chất lượng kích thích, có chất lượng thách thức đều dẫn đến những đòi hỏi sự sáng tạo của các bạn và do đó mới có ích cho Khoa Quản lý Đào tạo Quốc tế với tư cách là nơi tạo ra sự hoàn chỉnh của một sản phẩm mà xã hội được nhờ vào sản phẩm ấy. Thực ra, ở Việt Nam những người có khả năng đối thoại bình đẳng với các bạn là rất hiếm. Rất nhiều nhà doanh nghiệp không tự tin khi nói với sinh viên. Lý do là họ chưa từng là sinh viên, hoặc họ là sinh viên một cách chiếu lệ và họ sẽ nói với các bạn về tiền, bởi vì ưu thế của các nhà kinh doanh là tiền. Nhưng tôi sẽ không nói với các bạn về tiền, tôi nói với các bạn về cái cách mà chúng ta phải làm để trở thành một con người mà tiền chỉ là sản phẩm phụ của sự nghiệp của chúng ta.
Sinh viên (SV):Xin ông cho biết về động cơ khiến ông quyết định thành lập công ty của ông?
NTB: Lúc trước tôi đã nói về động cơ cá nhân rồi. Chúng ta ai cũng phải tìm ra động cơ cá nhân của mình. Đừng che giấu động cơ cá nhân của mình. Động cơ cá nhân trước mỗi một hành động là một trong những năng lượng quan trọng nhất để tạo ra sự chính đáng của hành vi. Vậy còn động cơ xã hội của nó là gì? Từ những năm 70 tôi đã nghiên cứu về diễn biến tình hình phát triển thế giới. Cuối những năm 70, khi người Trung Quốc bắt đầu mở cửa, đầu những năm 80, khi Mikhail Gorbachov bắt đầu tiến hành cuộc đổi mới ở Nga thì tôi đi đến một khẳng định dứt khoát rằng hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa sẽ sụp đổ. Rất nhiều người sau này cho rằng tôi nói phét, nhưng khi nhìn vào những việc tôi làm và tôi chuẩn bị thì người ta rút ngay cái ý kiến như vậy. Khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã thì hiệp ước khối SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế các nước XHCN) sẽ mất hiệu lực và Việt Nam dứt khoát sẽ rơi vào khủng hoảng. Các bạn biết là vào những năm 1984-1985, khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam trở nên tồi tệ, đỉnh cao là giá lương tiền. Vào thời điểm ấy, tôi nghiên cứu diễn biến chính trị thế giới, tôi không nghiên cứu Việt Nam, tôi xem Việt Nam là hệ quả tất yếu của diễn biến chính trị toàn cầu. Khi chúng ta mất đi bầu sữa của khối SEV thì chúng ta khủng hoảng. Chúng ta tưởng rằng chúng ta có thể qua khỏi khủng hoảng bằng giá lương tiền, và đương nhiên tất cả những giáo sư được học hay nghiên cứu kinh tế theo những trường phái như thế vào lúc ấy thì người thông minh nhất cũng chỉ tưởng tượng được đến thế thôi. Tôi âm thầm nghiên cứu kinh tế học mà tôi gọi là kinh tế học phi Marxist. Tôi bắt đầu đọc cuốn Kinh tế học của giáo sư Samuelson vào đầu những năm 80. Tôi có một anh bạn dạy ở trường Đại học Thủy Lợi, không biết anh ấy quen ở đâu đó trong Viện Kinh tế, anh ấy lấy được cho tôi bộ sách ấy và tôi học rất cẩn thận. Sau này, vào những năm 1987-1988 tôi tiếp đại sứ Thụy Điển, khi tôi nói về các quy luật của một nền kinh tế thị trường thì bà ta hỏi tôi rằng tại sao ở một nước như thế này mà lại có người hiểu thấu đáo các quy luật của một nền kinh tế tự do như vậy? Tôi trả lời rằng tôi là kẻ không thuộc bài cũ nên dễ học bài mới. Thế hệ đại học của các bạn bây giờ rất may vì không buộc phải học một thứ nữa, các bạn có quyền tiếp cận đến nhiều trào lưu tư tưởng kinh tế. Những quyển sách về các tư tưởng kinh tế trên thế giới đang được bán đầy ở ngoài đường, không thể nói là nó được dịch tốt hay không nhưng thà dịch không tốt còn hơn là không có.
Tôi dự báo như thế, tôi biết Việt Nam chắc chắn là phải có đổi mới. Năm 1986, bắt đầu từ Đại hội VI là có Đổi mới. Tôi có quan hệ với con trai lớn của bác Trường Chinh và tôi nhận ra rằng chắc chắn là phải có đổi mới. Đỉnh cao của Đổi mới đến năm 1989 mới lộ ra, đó là Mở cửa. Trước đây chúng ta đổi mới quan hệ sản xuất trong nông nghiệp vì chúng ta thiếu gạo, chúng ta bỏ ngăn sông cấm chợ và chúng ta thực hiện chính sách Khoán Mười. Chính sách Khoán Mười như là một chỉ giới về tầm nhìn của sự phát triển kinh tế Việt Nam trong nông nghiệp. Nhưng đến năm 1989, cùng với một số thể nghiệm tương đối táo bạo của thành ủy thành phố Hồ Chí Minh mà chúng ta có những kinh nghiệm để đưa chính sách Đổi mới thành Mở cửa. Tôi cho rằng khi mở cửa sẽ có hai cộng đồng người gặp nhau. Người phương Tây không hiểu gì về Việt Nam và những người Việt Nam cũng chả hiểu gì về tư bản phương Tây. Hai cộng đồng ấy mở cửa nhìn nhau và đều ngọng trong việc diễn đạt các nguyện vọng của mình, và họ cần phải có một kẻ phiên dịch. Và tôi lập công ty này với ý đồ trở thành kẻ phiên dịch sớm nhất cho sự khác biệt giữa hai hệ thống kinh tế, hai hệ thống chính trị và hai mức độ phát triển. Tôi tưởng thế, tôi cũng lãng mạn nghĩ thế nhưng tôi không thể ngờ rằng tôi đúng đến thế. Đấy là tôi trả lời câu hỏi của bạn. Tôi trả lời rất cẩn thận một câu hỏi để nói với các bạn rằng tôi rất tôn trọng các câu hỏi.
SV: Khi Việt Nam gia nhập WTO, theo ông, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có khó khăn gì và họ cần chuẩn bị như thế nào? Đối với riêng công ty của ông, ông đã chuẩn bị như thế nào?
NTB: Đây là một câu hỏi rất hay. Vấn đề mà tôi định nói với giới báo chí là không một ai được phép đem các nguy cơ của WTO ra mà dọa xã hội. Chúng ta không có cách nào khác ngoài việc hội nhập với thế giới. WTO là một thể chế để quy định, để hoạch định, để kiểm soát tính hội nhập toàn cầu của các nền kinh tế chứ không phải là thể chế duy nhất. Sẽ còn nhiều hình thức khác nữa. Ngay bản thân WTO có cấu tạo là các vòng đàm phán, các vòng đàm phán sẽ ngày càng chặt chẽ và sẽ thắt vào cổ tất cả các quốc gia không ý thức được về hội nhập. Nếu trước đây Việt Nam gia nhập WTO thì dễ hơn nhiều. Lúc đầu WTO là một cái sân rộng rãi, người ta khuyến khích vào, thậm chí không cần mua vé. Thế nhưng bây giờ nó trở nên đông quá rồi. Khi mà cộng đồng đông thì ý chí của cộng đồng trở thành ý chí của nhiều người, là đòi hỏi của nhiều người. Cho nên càng ngày tiêu chuẩn của WTO càng khắc nghiệt và những kẻ vào sau sẽ phải đối thoại, phải thảo luận với rất nhiều điều kiện. Đó là một tất yếu, không nên sợ nó. Ví dụ, thi là tất yếu đối với mọi sinh viên nên các bạn không thể sợ thi mà phải chuẩn bị học để thi. WTO là một trường thi đối với các quốc gia chậm phát triển như chúng ta. Chúng ta không thể sợ thi. WTO không tàn phá gì cả, nó chỉ tàn phá những mặt cũ kĩ, những mặt lạc hậu, những mặt vô tổ chức, vô kỷ luật của các nền kinh tế để huấn luyện các nền kinh tế bán chuyên nghiệp trở thành những đối tượng chuyên nghiệp. Chắc chắn tất cả những yếu tố phi chuyên nghiệp, những yếu tố tạm bợ, những yếu tố không chính thống dần dần sẽ bị loại bỏ theo sự áp đặt các tiêu chuẩn mà các thành viên của WTO phải tuân thủ. Tôi đã từng viết trong một bài đăng trên báo rằng WTO là một trường học vĩ đại để giáo dục các nền kinh tế chưa chuyên nghiệp.
Công ty của tôi chuẩn bị việc này từ lâu rồi. Tôi có quan hệ với tất cả các nền kinh tế trên thế giới quan tâm đến Việt Nam. Tôi có quan hệ rất mật thiết với Phòng Thương mại Hoa Kỳ ở Việt Nam, với Phòng Thương mại New York, Phòng Thương mại Los Angesles, Phòng Thương mại San Francisco, Phòng Thương mại London, Phòng Thương mại Paris. Tôi nghiên cứu các thị trường quan trọng nhất của nền kinh tế thế giới một cách rất chuyên nghiệp, nghiên cứu hệ thống các quy tắc thương mại và các bộ luật liên quan đến kinh doanh của tất cả các nền kinh tế quan trọng, những nền kinh tế có ảnh hưởng tới Việt Nam. Vì thế, tôi hơi giống một chút như tương quan giữa giáo viên với các bạn, tức là giáo viên dẫn các bạn đi thi, còn các bạn thì thi. Tôi không phải thi nữa, bởi vì tôi đã thi rồi. Công ty của tôi đã thi vào WTO cách đây 18 năm rồi.
SV: Khi những tập đoàn nước ngoài như tập đoàn của ông vào Việt Nam, họ có thế mạnh hơn về nguồn nhân lực, lương cao hơn... Vậy sự cạnh tranh của tập đoàn của ông với các tập đoàn bên ngoài ấy sẽ như thế nào?
NTB: Tôi buộc phải chấp nhận cuộc cạnh tranh ấy. Tôi không thể đem chi bộ, công đoàn của công ty ra thay thế tiền lương cho cán bộ được. Hiện nay tôi trả lương cho cán bộ của tôi tốt hơn nhiều so với một công ty nước ngoài có mặt tại Việt Nam. Tất cả những cán bộ là phó của tôi có lương cao hơn những người ở cùng vị trí như vậy trong bất kỳ công ty nước ngoài nào có mặt tại Việt Nam. Những cán bộ mới ra trường sau 3 năm là có một thu nhập tốt hơn người làm như thế ở công ty nước ngoài. Không có cách gì để khất lần cuộc cạnh tranh như vậy được. Chúng ta buộc phải thắng, ở đây không thể có nhân nhượng được nếu bạn muốn trở thành một nhà kinh doanh. Người ta cứ nói rằng "hy sinh đời bố để củng cố đời con" hay "chịu khổ ba năm để sướng muôn đời", tất cả những thứ như vậy không có giá trị trong thời đại của chúng ta. Thời đại của chúng ta là thời đại các bạn nữ thay đổi mốt áo quần của mình hàng tháng. Các bạn sẽ rất đau khổ nếu mặc một cái áo trong vòng 6 tháng mà người bạn trai của mình trông thấy nó liên tục. Các bạn buộc phải làm mới các nhu cầu của mình. Sự tăng trưởng các nhu cầu tiêu dùng như là dấu hiệu hệ trọng nhất của sự phát triển. Nếu ai không nghiên cứu được sự phát triển nhu cầu tiêu dùng của thị trường thì người đó không hiểu gì về kinh tế thị trường cả. Các bạn là các chuyên gia về kinh tế thị trường thì phải hiểu được đó là quy luật số một. Phải chấp nhận cạnh tranh. Chúng ta buộc phải thừa nhận sự tăng trưởng, sự thay đổi các nhu cầu là động lực của sự phát triển nền kinh tế. Rất là bất hạnh cho ngành dệt may nếu như bạn thích cái áo đang mặc quá một năm. Bản chất của nền kinh tế mà chúng ta muốn xây dựng chính là sự đỏng đảnh của nhu cầu tiêu dùng. Chúng ta không những đón nhận một cách tự nhiên các nhu cầu tiêu dùng mà chúng ta còn tạo ra các phương pháp luận để rủ rê con người thay đổi các nhu cầu của mình. Thời trang là một ví dụ, âm nhạc là một ví dụ. Sự thay đổi các dòng nhạc tạo ra một nền công nghiệp đắt giá và nhiều lợi nhuận nhất trong nền kinh tế Hoa Kỳ, đó chính là nghệ thuật biểu diễn. Thời đại của chúng ta là thời đại mà nhu cầu tiêu dùng thay đổi không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng, nó tạo ra một trào lưu mà tất cả những nhà sản xuất phải đón lõng. Khi tất cả các nhà sản xuất đón lõng sự đỏng đảnh của nhu cầu tiêu dùng thì các nhà cung cấp dịch vụ cũng phải đón lõng ở đầu đường xa hơn một chút để nghiên cứu nhu cầu và chuẩn bị dịch vụ để cung cấp. Và chúng ta buộc phải cạnh tranh.
Bạn có nói đến vấn đề tiền lương, vấn đề tiền lương là vấn đề sống còn. Một công ty có thể tuyên bố phá sản sau 3 tháng không trả lương. Người ta làm sụp đổ một đại công ty chỉ vì chủ tịch công ty đã sử dụng quỹ dự trữ tiền lương cho những mục tiêu cạnh tranh khác. Bí thư thành ủy Thượng Hải, Ủy viên Bộ chính trị vừa bị cách chức và có lẽ sẽ vào tù vì bị buộc tội tham nhũng khi ông ta sử dụng quỹ an sinh xã hội cho mục đích riêng, đấy cũng là một loại quỹ có liên quan đến tiền lương. Tiền lương quan trọng bởi vì nó là động lực cho việc người ta phát triển các nhu cầu tiêu dùng. Cho nên đồng lương phải thỏa mãn không chỉ trong sự cạnh tranh giữa các công ty với nhau mà cả trong sự cạnh tranh với thời đại nữa. Cho nên, tôi có hẳn một quan chức cấp phó chủ tịch luôn nghiên cứu về sự dao động của đồng lương tối thiểu trên thị trường lao động và chúng tôi kiểm điểm hàng tuần để luôn luôn giữ được tính tiên tiến của tiền lương. Tất cả những bài thi về WTO tôi đã trả giống như cô giáo của các bạn đã thi Master rồi. Chúng tôi đã làm Master về WTO từ mười mấy năm trước, bây giờ chúng tôi rủ các công ty khác đi học những bài như vậy.
SV:Theo ông, điểm yếu nhất của sinh viên Việt Nam hiện nay là gì? Ông có lời khuyên gì cho các sinh viên hiện nay? Trong những tiêu chí lựa chọn nhân viên của mình, ông cho tiêu chí nào là quan trọng nhất?
NTB:Câu hỏi này hay nhưng nó thể hiện tính ngây thơ của người đặt câu hỏi. Những đánh giá của một chủ xí nghiệp, của một nhà giáo dục, của người nước ngoài... là rất khác nhau. Do đó, không có câu trả lời đồng nhất cho việc nghiên cứu về điểm yếu nhất của sinh viên Việt Nam với tư cách là những người thực dụng thông thường. Nhưng tôi trả lời bạn một cách trân trọng vì tôi nhìn điểm yếu của sinh viên hiện nay khác với tất cả các cách nhìn khác của những người thực dụng khác. Theo tôi, điểm yếu nhất của sinh viên Việt Nam hiện nay là không hiểu tự do là gì. Các bạn luôn luôn đi tìm kiếm tiêu chuẩn, tìm kiếm đòi hỏi của người khác để chiều theo mà các bạn không biết giá trị quan trọng nhất của các bạn chính là phải hình thành ra tiêu chuẩn tinh thần của mình. Các bạn phải tự do đi tìm giá trị của mình, phát hiện ra các giá trị của mình và tìm cách bán các giá trị mà mình cho là xuất sắc nhất trong tập hợp nội hàm giá trị mình có. Điều quan trọng nhất đối với một con người là họ phải tự phát hiện ra mình là ai và mình có những thứ gì. Các bạn nghe bố mình bảo rằng mình giỏi toán, nghe cô giáo dạy vật lý khen mình là một trong 5 người giỏi vật lý nhất và tưởng mình có khả năng. Tất cả các sinh viên đều hóng hớt về khả năng của mình mà chưa biết cách đo đạc một cách chính xác khả năng thật của mình, chưa nghiên cứu về khả năng thật của mình một cách biện chứng. Có những người bỗng nhiên nghĩ rằng mình có khả năng âm nhạc nhưng nhà mình nghèo nên không mua nổi một cây đàn, như vậy có nghĩa là khả năng âm nhạc là khả năng tự nhiên của người đó nhưng không phù hợp với điều kiện khách quan của anh ta. Khi khả năng không phù hợp với điều kiện khách quan của mình thì nó nghiễm nhiên trở thành tiềm năng, mà tiềm năng thì không phải là khả năng. Cho nên, khi nghiên cứu về khả năng của mình, phải nghiên cứu khả năng bên trong trời cho mình và cả tập hợp các điều kiện khách quan để biến nó trở thành hiện thực, trở thành thứ dịch vụ bán được. Muốn thế thì con người phải rất tự do, không nghe ai cả, không hóng hớt ai cả mà hãy lắng nghe tâm hồn mình, hãy đo đạc mình và đo đạc các điều kiện khách quan của mình để tìm kiếm sự phù hợp. Tôi đã từng định nghĩa: Phát triển là sự gặp gỡ một cách thuận lợi giữa các tiềm năng bên trong của con người với các điều kiện khách quan. Khi con người có tự do và biết sử dụng công nghệ tự do thì tự nhiên con người sẽ hình thành một khả năng rất quan trọng đó là tự lập. Khi nào các bạn tự lập được thì các bạn mới trả lời được một cách chính xác mình là ai. Khi còn sống bằng bố mẹ, bằng cô dì, chú bác, bằng tất cả các mối quan hệ không phải là sản phẩm trực tiếp từ trí tuệ của mình thì chưa tự lập. Khi nào con người tự lập được thì sẽ xuất hiện một cái quan trọng hơn nhiều, đó là tự trọng. Tự do - Tự lập - Tự trọng là những đại lượng hết sức quan trọng để hình thành giá trị của con người. Các bạn đều biết rằng có những con người nếu mà đầu tư cho nó một chút thì giá của nó cao gấp mười lần so với giá tự nhiên, người ta gọi đó là lăng-xê. Rất nhiều người được lăng-xê, trông xa thì lấp lánh nhưng đến gần thì thấy rất thất vọng. Lăng-xê là một dịch vụ của nền kinh tế hiện đại để tạo ra vẻ lấp lánh của tất cả các đối tượng hàng hoá. Cần phải làm sao để mình được đầu tư để được lăng-xê, nhưng quan trọng hơn cả là làm sao sau khi được lăng-xê mình vẫn còn là mình. Khi nào các bạn hoàn tất được một vòng công nghệ như vậy thì không bao giờ các bạn sợ mất giá trị và cái đó được hình thành trong logic bộ ba Tự do - Tự lập - Tự trọng.
SV: Thưa ông, các cơ hội trong thời đại hội nhập ngày nay làm cho người giầu càng giầu còn người nghèo càng nghèo, vậy về mặt kinh tế, Việt Nam cần phải phát triển như thế nào để khắc phục khoảng cách giầu nghèo đó?
NTB:Bạn tưởng rằng khi nước ta chưa gia nhập WTO thì không có người giầu, người nghèo, không có khoảng cách giầu nghèo ư? Có chứ. Tôi nghĩ rằng càng phát triển thì khoảng cách giầu nghèo càng lớn. Phát triển là gì? Phát triển là người ta khai thác các năng lực tự nhiên của con người một cách có hệ thống và có tính hiệu quả cao nhất, mà năng lực của con người thì không giống nhau. Một sinh viên có hứng thú và có sức để học 20 tiếng một ngày thì không thể đem so với một người học 2 tiếng đã ngủ gật được. Vào những năm tôi học đại học, không có đèn điện như bây giờ mà tôi phải học bằng đèn dầu. Số lượng dầu mà tôi thắp để học bằng tiêu chuẩn của hai gia đình đông con. Ngày xưa một gia đình đông con được 5 lít dầu/tháng, và tôi đốt 10 lít/tháng để học. Tôi nghĩ rằng những người học 2 tiếng/ngày không thế đem so với tôi được, vĩnh viễn không bao giờ so sánh được. Khoảng cách giầu nghèo không chỉ là khoảng cách của sự may mắn mà còn là khoảng cách của sự phân bố tự nhiên các năng lực của con người. Cho nên, chúng ta phải thừa nhận khoảng cách ấy một cách khách quan mà chúng ta không thể khắc phục triệt để khoảng cách ấy được. Những nhà lý luận của chủ nghĩa xã hội đã từng mơ tưởng đến một sự bình đẳng như vậy và các nền kinh tế ấy đã thất bại bằng sự mơ tưởng. Người ta buộc phải phấn đấu và buộc phải thừa nhận tính khách quan của khoảng cách giầu nghèo nhưng người ta cần chống lại khái niệm khác chứ không phải khái niệm bạn vừa đề cập, đó là khái niệm nghèo khổ. Người ta chống lại sự nghèo khổ chứ không chống lại khoảng cách giầu nghèo. Nếu tôi có 1000 đô la/tháng tiền lương mà bạn chỉ có 10 đô la/tháng thì bạn là người nghèo khổ, khoảng cách giữa tôi với bạn là khoảng cách của sự nghèo khổ. Nhưng nếu tôi có 10.000 đô la mà bạn có 1.000 đô la thì bạn không nghèo khổ nữa nhưng bạn không giầu bằng tôi. Tuy nhiên, khoảng cách giữa 1.000 đô la và 10.000 đô la vẫn là khoảng cách không thể thay đổi được vì tôi năng động hơn bạn, tôi lao động vất vả hơn bạn. Tôi vừa viết một công trình nghiên cứu về tham nhũng, trong đó tôi có nói rằng sự hướng dẫn sai về chính trị, kinh tế, văn hoá trong xã hội đã tạo ra sự mất mát năng lực trên quy mô toàn xã hội. Khi con người mất mát năng lực thì không có khả năng cung cấp các dịch vụ trung thực cho xã hội. Để có thể sống được người ta buộc phải cung cấp các dịch vụ không trung thực. Các dịch vụ không trung thực là bản chất xã hội học của hiện tượng tham nhũng. Cho nên, chúng ta phải xoá đói giảm nghèo bằng cách cung cấp các dịch vụ để nâng cao năng lực của con người. Ví dụ như ở công ty chúng tôi vẫn thường tiến hành các cuộc điều tra nghiên cứu xã hội học để cải thiện năng lực xã hội. Nâng cao năng lực là cách phổ biến nhất để khắc phục hiện tượng nghèo đói, và trong chừng mực nào đó tạo ra khả năng cảm nhận một cách không đau khổ về khoảng cách giầu nghèo. Bởi khi người ta nhận thức được rằng khoảng cách giầu nghèo là một tất yếu thì người ta sẽ không đau khổ, còn nếu khuyến khích người ta nhìn nhận một cách sai lệch về khoảng cách giầu nghèo thì sẽ có đấu tranh giai cấp và sẽ có cách mạng và chúng ta lại cùng nhau nghèo đói. Chúng ta đã đi qua gần nửa thế kỷ cùng nhau nghèo đói. Người Việt Nam cực kỳ có kinh nghiệm về cái sự thật cùng nhau nghèo đói. Cho nên, nghĩ ít về khoảng cách giầu nghèo thôi nhưng cần phải làm mọi cách để chống lại sự nghèo đói của bản thân mình.
SV: Nhưng nghèo quá thì rất khó phát triển, số lượng người nghèo rất đông, làm thế nào để ra khỏi nghèo đói một cách nhanh chóng được?
NTB: Không có cách gì để thoát ra khỏi nghèo đói nếu không phát triển. Không sốt ruột được.
SV: Ví dụ như Cuba, người ta làm được. Ở Cuba nhân dân được chu cấp toàn bộ kinh phí chữa bệnh và thuốc men?
NTB:Nếu sốt ruột rằng cần phải làm như Cuba thì về cơ bản Cuba không có khoảng cách giầu nghèo nhưng Cuba lại là một nước rất nghèo. Vậy bạn chấp nhận có khoảng cách giầu nghèo hay bạn thích chúng ta cùng nghèo đói?Chúng ta phải nhớ một điều là chúng ta đang sống trong một thế giới mà cái chúng ta nghe thấy buộc chúng ta phải rất thận trọng để nghe cho đúng. Không được nhầm lẫn giữa cái người ta nói với mình với cái người ta có trong thực tế. Không có cách gì để ra khỏi sự nghèo đói một sớm một chiều được. Không có cách gì để một sinh viên đang học năm thứ hai, thứ ba trở thành một ông chủ. Không đốt cháy giai đoạn như thế được. Bạn buộc phải học rất giỏi, rất chăm, bạn phải đi qua giai đoạn lao động như một kẻ bị thuê mướn rồi sau đó bạn mới trở thành ông chủ được. Con người không thể sốt ruột được. Có những hiện tượng đột biến được gọi là thiên tài trên thế giới này như Bill Gates. Nhưng không có 2 Bill Gates trên thế giới và chúng ta cũng không thể nói với sinh viên rằng Bill Gates có học đại học đâu mà ông ta trở thành người giầu nhất thế giới. Khi Bill Gates sang đây nói chuyện ở trường Bách Khoa là tôi rất lo cho các bạn vì nếu mà nghe người ta xui dại như vậy thì hỏng. Chúng ta buộc phải lao động một cách rất trung thực.
BBT. Rất may Bill Gates đã khuyên hết sức đúng rằng đầu tư cho bản thân quan trọng nhất là đầu tư cho học tập. Nếu bạn theo học đại học thì bạn cần có nghĩa vụ đối với quốc gia thông qua công việc của mình.
SV: Ông có thể cho biết trong quá khứ ông đã gặp những khó khăn gì và đã vượt qua như thế nào để có một công ty từ 3 người lên đến 300 người? Trong những năm tới công ty ông có chiến lược phát triển như thế nào?
NTB: Tôi kể cho bạn nghe câu chuyện này. Khi tôi còn học phổ thông, bên cạnh lớp tôi có một cô học sinh rất đẹp, cô ấy kéo violon cực hay. Tôi thích cô ấy lắm mà không nói được vì tôi nghèo quá. Rồi tôi đi bộ đội, tôi chưa kịp học đại học còn cô ấy vào đại học. Sau khi đi bộ đội về tôi học lại phổ thông một năm để có kiến thức thật để thi đại học vì tôi không bao giờ học giả vờ. Khi tôi đi học lại thì cô ấy đã trở thành một cô giáo dạy toán, cô ấy đến lớp giảng và phát hiện ra cái cậu đã từng thích cô ấy đang ngồi ở dưới. Khi ấy tôi rất tự tin nhưng cô ấy thì bỏ chạy, cô ấy xin chuyển trường, không dạy ở đó nữa. Bao nhiêu năm sau, khi chúng tôi họp lớp thì cô ấy đến lớp với tư cách là một người không chồng, cô ấy bỏ chồng. Cô ấy mời tôi đi uống cafe và nói rằng, nếu ngày ấy cậu không sỗ sàng và thô lỗ, nếu ngày ấy cậu tỏ ra duyên dáng hơn một chút thì mình đỡ bất hạnh bao nhiêu. Tôi kể cho các bạn nghe câu chuyện này để nói với các bạn rằng cần phải chân thành với chính mình, cần phải đủ dũng cảm để sống chân thật với chính mình thì sẽ nhận ra rằng không có cái gì trên đời này thực sự là thử thách cả. Thử thách hay khó khăn chỉ là cái một người quan sát một người khác thôi, còn đối với một người biết chịu đựng những thử thách của số phận thì thử thách ấy chính là nội dung cuộc sống của họ. Tâm hồn như một đôi cánh để giúp con người đi qua các khó khăn mà nó không kịp nhận ra sự bất hạnh của nó trong khó khăn. Đấy là kinh nghiệm vĩ đại nhất mà một người 60 tuổi như tôi nhận ra ở con người. Không ai thật nhận ra thử thách của cuộc đời mình cả nếu nó hoạt động dũng cảm như một con người. Như chuyện cô Tuyển vác một lúc được 2 hòm đạn chẳng hạn. Sau này các nhà tuyên huấn của chúng ta bảo cô ấy vác lại để quay phim thì cô ấy chịu, không vác lại được vì không ai có thể vác được 2 hòm đạn nặng đến thế để biểu diễn sự khoẻ mạnh, người ta chỉ có thể làm việc đó trong tình huống khi lòng yêu nước trở thành đôi cánh, trở thành thiên thần trong đời sống tâm hồn của mình. Cho nên, nếu các bạn yêu cầu tôi nói về những kinh nghiệm đi qua những thử thách, những khó khăn trong cuộc đời của mình thì tôi phải nói thật với các bạn rằng với tư cách là một người hoạt động thực tiễn, với tư cách một người yêu con người thì tôi không bao giờ cảm thấy những khó khăn, không có lúc nào tôi cảm thấy bất hạnh rình mò xung quanh cuộc đời của tôi cả. Đôi lúc nhìn lại, ở những trạng thái khác khi đã đi qua khó khăn ấy thì thấy hoá ra mình không ra gì nhưng mình cũng đáng nể. Tại mỗi thời điểm như vậy một con người hành động dũng cảm không cảm thấy khó khăn. Tôi nói với các bạn nguyên lý hết sức phổ quát đối với đời sống tinh thần của một người thành công thật trong cuộc đời là người ta không cảm thấy khó khăn mà cảm thấy tính phải đạo, tính có lý, tính bắt buộc phải hành động vào những lúc khác nhau, những tình huống khác nhau, những trạng thái khác nhau của cuộc đời một con người. Đừng vì sự tỉnh táo, sự khôn ngoan mà đánh mất đi sự trong sáng của đời sống tâm hồn, vì nếu đánh mất nó thì con người sẽ trở thành một kẻ lữ hành bằng cách đi bộ trên mặt đất đầy chông gai. Nếu giữ được sự trong sáng của đời sống tâm hồn thì các bạn sẽ thấy rằng đôi lúc người ta bay mà không phải đi bộ.
SV: Hiện nay, hàng năm chỉ số tăng trưởng kinh tế của Việt Nam rất cao, giá cả hàng hoá cũng cao nhưng thu nhập của người lao động vẫn rất thấp. Sự mâu thuẫn đó sẽ dẫn đến chảy máu chất xám. Vậy theo ông, khi tốt nghiệp ra trường, những sinh viên có năng lực nên ra nước ngoài làm việc để có cuộc sống khá hơn hay là ở lại Việt Nam?
NTB: Câu hỏi rất hay. Tôi nghĩ rằng, theo xu hướng hiện nay, toàn cầu hoá là một quá trình dịch chuyển tất cả các dòng năng lực của nhân loại đến những chỗ mà giá trị có thể tăng trưởng. Lao động cũng là một năng lực và nó sẽ dịch chuyển. Bạn đi ra nước ngoài hay ở Việt Nam đó là quyền của bạn, và đó là quy luật của sự vận động của các dòng năng lực ở trên thế giới. Tôi không đưa ra bất kỳ lời bình luận nào khuyên bạn nên ở Việt Nam hay ra nước ngoài, nhưng bạn nên nhớ rằng đi ra nước ngoài không phải là sự dịch chuyển thuận hoàn toàn. Bạn tưởng bạn có kiến thức, nhưng 3/4 giá trị thương mại của bạn phụ thuộc vào thói quen được hình thành trong những điều kiện phát triển của người ta. Không phải là cái bạn học được, không phải năng lực của bạn tác nghiệp trên máy hoặc trên một số vấn đề cụ thể nào đó quy định giá cả của bạn trên thị trường lao động nước ngoài. Nếu bạn muốn đi ra nước ngoài thì bạn phải có thêm một số năng lực ngoài những năng lực bạn nhận là bạn có và năng lực bán sản phẩm của bạn là năng lực lớn nhất. Trong cái thị trường bậy bạ ở ngoài phố thì một cô gái quê bán mình giá rẻ hơn rất nhiều so với một cô gái đô thị. Cho nên để bán các năng lực của mình thì con người buộc phải có các mẹo vặt, con người phải đô thị hoá. Trong quá trình dịch chuyển thì một người ở Lạng Sơn có thể là nhà quê so với một người cư trú ở Hà Nội và Việt Nam hoàn toàn có thể quê mùa so với thị trường New York. Sự thiếu hụt về kiến thức trong chương trình học của trường đại học Kinh tế Quốc dân Việt Nam so với trường đại học Havard có thể khắc phục được bằng sự cố gắng. Nhưng để khắc phục được tình trạng nhà quê của người Việt Nam so với tình trạng phát triển đô thị ở New York thì phải mất gấp 4 lần thời gian cho kiến thức. Phải rất cẩn thận, nếu không bạn sẽ mắc bệnh chủ quan.
SV:Ông có thể giải thích tại sao kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng đều đặn hàng năm và giá cả hàng hoá thì cao nhưng mức lương vẫn rất thấp?
NTB: Mức lương vẫn thấp bởi vì người Việt Nam không có văn hoá tiền lương. Chính sách tiền lương của chúng ta không được dựa trên những tiêu chuẩn đúng đắn của văn hoá tiền lương. Người Việt Nam chưa ra khỏi mâu thuẫn của quan hệ giữa tiền lương và năng lực. Bởi vì chúng ta có quá nhiều người được tuyển mộ theo những quan niệm sai trái, được đào tạo theo những tiêu chuẩn không phù hợp và hiện nay chúng ta đang giẫm chân tại chỗ trong sự không tương thích giữa năng lực và tiền lương. Các bạn cũng cần quan sát một cách cẩn thận để xem hiện tượng đó diễn biến như thế nào. Tuy nhiên, không phải cả xã hội giẫm chân tại chỗ trong quan hệ tiền lương thấp, có nhiều bộ phận khác nhau của xã hội đã bắt đầu ra khỏi và phát triển một nền văn hoá tiền lương khác, không còn giống với mức chung vốn có. Quy luật của sự phát triển là các bộ phận phát triển một cách khác nhau chứ không phải tất cả mọi bộ phận đều phát triển đồng đều. Cho nên khi bạn nói rằng tìền lương ở Việt Nam vẫn thấp thì đấy là bạn nói ở mức kết luận chung chung. Nhưng nếu bạn đi sâu vào các xí nghiệp bạn sẽ thấy rằng: vì nhà nước không hỗ trợ một chính sách thu nhập cao cho nên đại bộ phận các xí nghiệp đã trả lương cao đều giấu ưu điểm của mình, bởi vì nếu không họ sẽ phải mất thêm một lượng chi phí khá lớn để đóng thuế. Cho nên, vấn đề đặt ra là nhà nước phải ra khỏi nền văn hoá tiền lương thấp chứ không phải xã hội, bởi vì xã hội đã bắt đầu làm việc ấy rồi. Đây là một vấn đề lý luận thật sự, lý luận của những người hoạch định chính sách cao nhất chứ không phải chỉ là lý luận của một trường đại học.
SV: Nhiều người vẫn khuyên sinh viên rằng phải học để sau này đi làm bán cái mà người ta cần chứ không phải bán cái mà mình có. Theo ông điều đó có đúng không?
NTB: Có hai câu trả lời khác nhau cho câu hỏi của bạn. Đối với đại bộ phận người sử dụng lao động cũng như người bán sức lao động thì lời khuyên ấy là đúng, tức là bán cho người ta cái người ta cần chứ không phải bán cái mình có. Nhưng với sinh viên của trường Đại học Kinh tế Quốc dân là một trường đại học có giá trị chiến lược đối với nền kinh tế Việt Nam thì lời khuyên ấy không đúng. Bởi vì với một xã hội chưa chuyên nghiệp như xã hội chúng ta thì sinh viên của trường này phải thuyết phục xã hội rằng cái các anh cần là cái tôi có. Chúng ta phải rèn luyện năng lực để nói với xã hội rằng các anh chưa biết tôi có cái mà các anh cần. Cách đây nhiều năm, tôi đến nói chuyện tại một câu lạc bộ được xem là cổ xưa nhất của nền văn hoá Hoa Kỳ là Commonwealth Club ở San Francisco. Tại buổi nói chuyện, người chủ tịch câu lạc bộ ấy nói với tôi trước khi tôi bắt đầu rằng cái chỗ mà ông đứng là chỗ của những nhà chính trị hàng đầu của Hoa Kỳ, của các nguyên thủ quốc gia và các nhà văn hóa nổi tiếng trên thế giới, ông phải ý thức về cái vinh dự ấy và ông phải nói với chúng tôi về điều A, điều B... Tôi trả lời rằng xét về mặt lịch sử mà nói thì tôi có trình độ tương đương với một người được giáo dục ở mức trung bình của Hoa Kỳ, cho nên tôi hiểu lịch sử câu lạc bộ của ngài, và tôi cũng biết rằng người Mỹ nếu đặt ra câu hỏi thì đã có sẵn câu trả lời rồi. Hôm nay tôi sẽ nói với các ngài về những thứ mà người Mỹ chưa có kinh nghiệm đặt câu hỏi vì tôi ý thức được vinh dự của tôi. Tôi kể câu chuyện này để nói với các bạn rằng sinh viên của trường Đại học Kinh tế quốc dân, Khoa Quản lý Đào tạo Quốc tế dứt khoát phải rèn luyện mình ở mức để nói với người sử dụng mình, người sẽ sử dụng mình rằng cái tôi có quan trọng hơn cái anh cần, cái tôi có là cái tương lai anh cần chứ không phải là cái mà hôm nay anh nhận ra là cần thiết. Đội ngũ trí thức của chúng ta phải đủ tinh khôn để rèn luyện mình ở mức ấy chứ không phải là đi bán năng lực thông thường vì nếu bán như thế thì không thể có giá cao cho lao động của các bạn được.
SV:Với vai trò là người tuyển dụng, ông có những yêu cầu gì với những người gia nhập công ty của mình?
NTB: Tôi chẳng đòi hỏi gì cả. Khi giao lưu với sinh viên trường Tài chính Kế toán, có sinh viên hỏi tôi rằng "Thưa ông, chúng tôi làm sao mà xin việc được nếu như đến cơ quan nào người ta cũng đòi hỏi hai năm kinh nghiệm?" Đối với một sinh viên mới ra trường mà đòi hỏi như thế thì cũng ngốc nghếch giống như việc lấy vợ mà lại đòi hỏi người đàn bà phải có hai năm kinh nghiệm về đàn ông. Tôi không đòi hỏi gì cả, tôi đo độ nhạy về tinh thần của các bạn, tôi đo độ cao thượng của đời sống tinh thần của các bạn. Độ nhạy bén cộng với sự cao thượng sẽ tạo ra khả năng không thể dự báo được về sự phát triển. Tôi không thuộc những người sử dụng lao động một cách tầm thường, cho nên nếu hỏi kinh nghiệm của tôi thì tôi sẽ nói kinh nghiệm không phổ biến trong xã hội. Tôi không làm gì cả, nếu linh cảm mách bảo tôi rằng người này có giá thì tôi sẽ nhận vào làm ngay. Tôi còn có một cái khác nữa là những người tôi cần đào tạo không bao giờ tôi chiều ngay từ đầu cả, có những kẻ tôi dấu kín và 5 năm sau tôi bỗng đưa lên từ một nhân viên thông thường thành một giám đốc của công ty. Thực phẩm của những thiên tài là tự do, mà điểm mấu chốt của tự do là quên đi sự lệ thuộc của mình vào lời khen, tiếng chê của người khác. Người Việt chúng ta có một nhược điểm hết sức phổ biến và hệ trọng là luôn luôn chờ đợi, hóng hớt lời khen của người khác. Lâu lâu không ai khen thì mình có cảm giác như mình sống trên sa mạc, một lời khen đểu giả đôi khi tạo ra niềm hân hoan ngớ ngẩn của rất nhiều con người. Những kẻ không lệ thuộc vào lời khen, tiếng chê, kẻ cặm cụi nghiên cứu, chấp nhận và khai thác các lẽ phải trong đời sống tâm hồn kín đáo của mình sẽ tạo ra thiên tài. Tôi có một định nghĩa về thiên tài trong một quyển sách mà tôi đã xuất bản rằng thiên tài là một thứ năng lực mà người sở hữu nó là kẻ cuối cùng biết đến nó. Thiên tài là thứ rất ít khi người có nó nhận ra nó. Ngay cả tài năng mà chúng ta nhận ra, rồi chúng ta tự giác đánh bóng mạ kền cho nó, chúng ta bày nó lên để bán thì cũng vẫn là nhầm lẫn. Các bạn sống hồn nhiên, các bạn tìm mức sống tối thiểu bằng việc bán những khả năng thông thường của mình một cách thực dụng nhưng các bạn phải chăm sóc những điều ẩn dấu ở những chỗ sâu xa trong tiềm thức của các bạn, đến một ngày nào đó số phận thiên thời của các bạn đến, cái đó sẽ xuất hiện trước một ai đó. Con người đừng nhầm lẫn cuộc sống thông thường với cuộc sống thành đạt. Người ta thành đạt là do sự gặp gỡ một cách hoàn toàn may mắn giữa những yếu tố mình có với cái mà thiên hạ cần, còn để tạo ra cuộc sống hàng ngày thì con người phải lao động một cách thông thường, chấp nhận các tiêu chuẩn thông thường, sử dụng các công nghệ thông thường của cuộc sống. Tức là thành đạt có hai mức độ, mức thông thường là mức chúng ta vẫn sống, có thể không bao giờ cơ hội đến với ta cả. Tôi vốn là một người nghèo khổ, năm 44 tuổi tôi chỉ có 1 cái xe đạp thôi và kẻ trộm cũng lấy nốt đi. Nhưng đến 45 tuổi tôi đi ôtô. Chuyển từ đi xe đạp lên đi ôtô, tôi không hề ngỡ ngàng, ngượng ngập, không hề vội vàng khi mở cửa ôtô. Tôi bước lên ôtô cũng duyên dáng không kém gì bước lên xe đạp, bởi vì dù bước lên ôtô thì tôi vẫn là một con người, từ trong tâm hồn tôi vẫn nghĩ mình là một con người thánh thiện. Con người cần phải có đủ tự tin để tin vào sự cao quý của đời sống tinh thần của mình. Cái đó là tài sản vô giá của tất cả các bạn, không vì bất cứ lý do gì mà đánh đổi nó. Thưa ông, thưa bà, ông bà có thể lấy đi bất cứ cái gì thuộc về miền năng lực thông thường của tôi, nhưng cái bí mật, cái riêng tư của đời sống tâm hồn của tôi thì xin ông bà bỏ dép bên ngoài nếu muốn bước vào. Nếu làm được như thế thì các thầy cô của các bạn sẽ quý trọng các bạn. Xã hội quý trọng những người như thế không phải vì chính người ấy mà muốn thông báo rằng xã hội gồm những người có giáo dục. Giống như đối với những người tài thì vấn đề không phải là việc họ được tặng huân chương. Tặng huân chương không phải là để họ trở thành người tài mà tặng huân chương là để thể hiện người có giáo dục thì phải biết tôn trọng người tài, huân chương ấy chính là bằng chứng thể hiện sự có giáo dục của nhà nước. Khi nào các bạn nghĩ được như thế thì các thầy cô giáo sẽ yêu quý các bạn hoàn toàn tự nhiên và niềm tự hào của thầy cô giáo sẽ lớn gấp mười lần so với niềm tự hào của sự khách sáo.
SV: Có câu : "Có chí làm quan và có gan làm giầu". Vậy theo ông "chí" và "gan" có phải là hai bản tính đặc trưng cho hai lối sống của con người không?
NTB: Tôi nói chung không thích các câu tục ngữ kiểu như thế vì nó đơn giản hoá tất cả các quy luật của đời sống tinh thần. Ví dụ, ngày xưa khi đi mua xe máy thì người ta phải chọn cái xe có mác "kim vàng giọt lệ". Quy tắc hóa các công nghệ sống như kiểu "kim vàng giọt lệ" hay là "có chí làm quan và có gan làm giầu" là những thứ mà tôi không thích và tôi khuyên các bạn không nên tuân thủ những thứ như thế một cách đơn giản. Giải thích nó hay làm phong phú nó thì có thể, tìm hiểu nó thì có thế nhưng nghe theo nó thì không. Nghe theo các quy tắc đơn giản là dấu hiệu rực rỡ nhất để thể hiện mình là một kẻ chậm phát triển xét về mặt đời sống tinh thần. Có chí thì làm quan nhưng không có nghĩa là không cần những yếu tố khác. Chính vì nghe theo những quy tắc đơn giản như vậy cho nên chúng ta mới có những kẻ đầu tư một cách bạt mạng để làm quan, mới có chuyện mua quan, bán tước mà báo chí vẫn nói rầm lên.
Cuộc sống phong phú hơn thế, không chỉ có hai loại hoặc làm quan hoặc làm giầu. Nói như thế thì không có phương châm làm người. Không ai có thể từ chối được việc làm người, mà làm người thì làm nhiều thứ lắm. Nếu nghe theo hai tiêu chí ấy thì cuộc sống của bạn sẽ phiến diện, bạn sẽ chẳng làm quan được và cũng chẳng làm giầu được. Bạn phải làm nguời, bạn yêu tất cả những thứ gì thông thường của một con người, rồi bạn làm quan lúc nào, bạn làm giầu lúc nào không biết. Không ai sinh ra định làm quan mà lại làm quan thật, người ta có thể có một cương vị nhưng không làm quan. Rất nhiều người làm quan to nhưng chẳng bao giờ dám nói gì cả, cấp trên trợn mắt là im, rất nhiều người làm bộ trưởng nhưng mà nhát, vậy làm quan để làm gì khi mà leo lên đến đấy rồi vẫn là một kẻ nhát nhúa? Còn làm giầu làm gì nếu mỗi một đồng tiền bạn kiếm được là kết quả của sự lừa đảo và bạn không có dấu hiệu lấp lánh nào của đời sống tinh thần của bạn trên mỗi một đồng tiền. Bây giờ bạn đang là sinh viên không có tiền, bạn không có nỗi đau khổ của kẻ có tiền. Nhà giầu cũng khóc khi nhìn thấy mỗi một đồng tiền của mình là một chữ để ghi lại lịch sử của tội ác. Các quy luật nhân quả ám ảnh cả cuộc đời của những kẻ không biết cách làm giầu. Quên mất làm người mà làm giầu, quên mất làm người mà làm quan đều tạo ra những di họa khủng khiếp mà khi mở đầu sự nghiệp không ai tin rằng nó sẽ đến.
SV: Có câu nói rằng so với những người thất bại thì những người thành công thất bại hơn rất nhiều lần. Ông nghĩ thế nào về câu nói ấy và ông có lời khuyên gì cho sinh viên?
NTB:Đấy là một câu rất hay. Có một quyển sách đang được bán ngoài phố phê phán một trong những phương pháp luận về giáo dục của nhân loại, đó là người ta học cái đúng mà không học cái sai. Tôi luôn luôn trân trọng những cán bộ tạo ra được sai lầm và những sai lầm ấy là có giá. Cái thất bại lớn nhất của một con người là trong suốt cả cuộc đời họ chẳng có một thành công hay thất bại nào đáng để ý cả. Có câu "thất bại là mẹ thành công" cũng đơn giản quá. Tôi không thích những loại châm ngôn kiểu ấy. Về mặt triết học mà nói, học thông qua thất bại thì nhận được nhiều hơn. Thành công làm cho con người lâng lâng, làm cho con người hạnh phúc và không ai có thể học tập một cách sâu sắc được trong cái cảm giác lâng lâng của hạnh phúc. Yêu là cảm giác sướng nhất trên đời này và không ai học giỏi khi yêu cả. Tất cả những kẻ đang học giỏi ngẫu nhiên yêu là học sút ngay. Không phải bởi vì đạo đức, tư cách giảm đi mà bởi vì tâm hồn hạnh phúc đòi hỏi một sự bôi trơn tuyệt đối để con người không thèm đếm xỉa đến việc được điểm 2, điểm 3 khi thi.
SV:Ông có nói về việc cần phải thoát ra khỏi sự nghèo đói. Nước ta là nước đang phát triển, chúng ta có rất nhiều người nghèo. Người nghèo mặc dù có đủ niềm tin nhưng lại không có đủ tiền bạc và tri thức để làm giầu, theo ông vấn đề đó có thể giải quyết bằng cách nào?
NTB: Bạn về nông thôn, về các vùng tỉnh lỵ thì sẽ thấy những người nghèo thoát ra khỏi cảnh nghèo như thế nào bằng những trí tưởng tượng hết sức bất ngờ. Các giáo sư đôi lúc nghèo hơn rất nhiều so với những người ít học, bởi các giáo sư đòi hỏi những phát hiện được giải thưởng Nobel, còn những người ít học thì chỉ cần phát hiện của mình được vợ khen thôi là mừng rồi. Đôi khi sự khen của các bà vợ có giá trị thực tiễn hơn nhiều so với giải thưởng Nobel trong tưởng tượng của một giáo sư. Các bạn đừng cầu toàn, các bạn phải biết ra khỏi nghèo đói không phải bằng lý thuyết mà bằng sự bất ngờ của những phản xạ tự nhiên của con người trước thực tiễn. Nghề tư vấn đối với tôi cũng là một sự phát hiện hoàn toàn bất ngờ, lúc đầu chẳng có lý thuyết gì cả, rồi dần dần cùng với thực tế, cùng với sự phát triển của nghề cụ thể người ta tạo ra cơ sở lý luận của nghề gọi là nghề dịch vụ. Để nói với bạn, tôi hoàn toàn có thể đưa ra cho bạn bất kỳ một mô tả khái quát nào, nhưng đối với một sinh viên của trường Đại học Kinh tế Quốc dân thì tôi không muốn đẩy sâu các bạn vào tầng lý sự. Các bạn có đầy đủ lý luận mà không cần phải lý sự nữa, các bạn phải đem lý luận của mình vào trong cuộc sống và quan sát nó một cách thoả đáng để phát hiện ra không phải sự có lý của cái lý luận mà mình có mà phát hiện ra sự vô lý của nó. Giáo sư Nguyễn Hồng Phong khi còn sống có nói rằng khoa học là việc mô phỏng những quy luật khái quát thông qua việc lược bỏ các yếu tố dị biệt được gọi là quá trình mô phỏng hoá, còn cuộc sống là những trường hợp cụ thể và những cá biệt. Cho nên, một người học giỏi là một người càng ngày càng tìm thấy sự vô lý của những điều mình học, sự không phù hợp của những điều mình học và sự đơn giản của những điều mình học. Nếu ai thần thánh hoá những điều mình học được trong cuộc đời thì kẻ đó vĩnh viễn không bao giờ trở thành người thành đạt cả, chỉ trở thành kẻ tuyên truyền cho những điều mình học được mà thôi. Trở thành nô lệ tuyệt đối cho những điều mình học thì học tập là một quá trình tự tàn sát mình. Các bạn phải học như thế nào để càng ngày càng thấy rằng những điều mình học đơn giản quá so với cuộc sống. Khi nào các bạn có được tâm trạng như vậy, các bạn sẽ thành công. Còn nếu các bạn càng ngày càng tôn trọng những điều mình học, càng ngày càng chìm đắm vào sự có lý của những điều mình học thì các bạn sẽ thất bại một cách chắc chắn trong cuộc đời.
SV:Trước đây khi ông có ý tưởng thành lập công ty, có người nói với ông đó là điều không thể hoặc nói khoác, bây giờ nếu có một nhân viên của công ty ông đưa ra một ý tưởng nào đó khác thường, liệu ông có cho rằng đó là không thể hoặc nói khoác không?
NTB: Tôi xin giới thiệu với các bạn chị Đỗ Thu Thuỷ là Giám đốc điều hành của Viện nghiên cứu Investconsult. Chị Thuỷ là người tốt nghiệp Đại học ngoại ngữ, khoa tiếng Anh, hoàn toàn không có kiến thức gì về mặt xã hội học, hoàn toàn không có kiến thức gì về kinh tế học, hoàn toàn không có kinh nghiệm gì về chính trị học, nhưng chị Thuỷ là người giúp tôi biên tập và làm quyển sách này. Chắc chắn đây là một quyển sách hết sức quan trọng trong đời sống lý luận chính trị Việt Nam, tôi không thể nào khiêm tốn mà không khẳng định như vậy. Tôi đưa trường hợp chị Thuỷ ra để nói với các bạn rằng, với tôi không có bất kỳ sự bất ngờ nào làm cho tôi khó chịu cả, không có bất kỳ đề nghị điên điên, khùng khùng nào làm cho tôi khó chịu cả. Tôi đến trường Harvard năm 1990, tôi có thảo luận với ông hiệu trưởng của trường Harvard Law School về tuyển sinh, ông ta nói rằng trường chúng tôi tuyển 90-95% theo đúng tiêu chuẩn, còn 5 đến 10% chúng tôi dành cho những trường hợp rất cá biệt. Chúng tôi có một triết lý là nhân loại tồn tại bằng 95% những kẻ thông thường và phát triển bằng 5% những kẻ cá biệt. Đấy là một tỷ lệ mà nước Mỹ quy định về những con người tham gia vào sự duy trì đời sống. Sự ổn định thông thường được quy định bởi 95% con người nhưng nếu mất đi 5% cá biệt thì cuộc sống không phát triển được. Cho nên, tôi là một người có giáo dục đủ để tiếp nhận, để không phủ nhận những sự điên điên, khùng khùng của cấp dưới của mình.
SV:Theo ông, để trở thành một nhà doanh nghiệp thành công cần những phẩm chất gì?
NTB: Để trở thành một nhà doanh nghiệp thành công hay để thành công ở bất kỳ cương vị nào thì con người cần có một số phẩm chất phổ biến. Thứ nhất là phải rất lương thiện. Con người không bắt đầu từ sự lương thiện thì không thể có động lực làm cái gì tử tế được. Phải biết yêu con người. Chẳng hạn tôi bắt đầu kinh doanh là vì yêu con. Tôi làm kỹ sư cầu đường còn vợ tôi là người học văn. Văn chương thì hấp dẫn mà mình ngô nghê không biết gì về văn chương để nói với người yêu của mình thì e không được, thế là tôi âm thầm đi học tại chức khoa Ngữ văn của trường Đại học Tổng hợp. Khi vợ tôi tốt nghiệp đại học thì luận văn của cô ấy là tôi cùng viết. Tôi hiểu về văn học nước ngoài, về lịch sử văn học Pháp, lịch sử văn học Nga, lịch sử văn học Anh chắc chắn là hơn một cử nhân chuyên nghiệp. Ở chỗ tôi có rất nhiều người tốt nghiệp văn chương chuyên nghiệp nhưng nhiều khi không hiểu và không biết về những thứ tôi nói. Nếu không bắt đầu từ những động lực thân thiện của mình đối với con người thì rất khó để bổ sung cho mình đủ lượng trí tuệ cần thiết. Vì yêu người đàn bà mà mình yêu thì mình phải hiểu cái mà cô ấy học, đấy là một động lực mang tính thân thiện, cái đấy làm xúc động bất kỳ một bạn gái nào ở đây. Cho nên đầu tiên là phải lương thiện. Các quy luật tinh thần của con người mách bảo các bạn cần phải làm gì, rồi các bạn sẽ tự tìm thấy sự thành đạt thích hợp của mình. Nếu bây giờ tôi nói rằng tôi kiên quyết trở thành Bill Gates thì tôi là người ngớ ngẩn, vì tôi không có cách gì để trở thành Bill Gates ở Việt Nam được. Với tư cách là một người thông thường bạn sẽ tìm ra mức độ thành đạt mà bạn cần, quy luật riêng của bạn để trở thành một người thành đạt. Thành đạt không phải là một quy luật dựa vào những tiêu chuẩn phổ biến mà thành đạt là kết quả tự nhiên của sự mách bảo những giá trị tinh thần mà chỉ có một mình bạn biết bạn có mà thôi. Đừng học người khác để trở thành người thành đạt, cái dở nhất của nhà trường chúng ta là dạy các tấm gương, xem các tấm gương như những ví dụ để cho các bạn vươn lên. Không một ai thành đạt được nếu người ta vươn lên để trở thành một người khác mình. Quy luật phát triển tất yếu của loài người chính là mình trở thành kẻ có giá trị cao nhất trong những khả năng của mình. Tính pha trộn của mình với người khác càng ít bao nhiêu thì giá trị cống hiến của mình đối với xã hội càng lớn bấy nhiêu, bởi vì giá trị cống hiến của một con người cụ thể, của một cá nhân cụ thể đối với xã hội chính là nó đóng góp cái phần của nó chứ không phải cái phần nó bắt chước người ta. Nhưng nếu đem những giá trị cá nhân của mình để đối lập với những giá trị cá nhân khác thì lại là phá hoại. Hợp tác là quy luật của con người hiện đại. Làm thế nào để bảo tồn các giá trị riêng của mình một cách thân thiện trong sự hợp tác như là một quy luật đối với người khác chính là giá trị cao nhất của trí tuệ của con người hiện đại.
SV:Trong sự nghiệp của mình ông có gặp nhiều may mắn không?
NTB: Bất kỳ một người nào cũng cần sự may mắn. May mắn như những ân sủng mà thượng đế trả cho sự lương thiện của con người. Nếu bạn xem may mắn như là một thứ nhặt được một cách ngẫu nhiên thì bạn không bao giờ gặp may cả, nhưng nếu bạn nghĩ rằng may mắn như một ân sủng của thượng đế đối với những gì cao quý trong tâm hồn của bạn thì bạn sẽ may mắn hơn. Cho nên, giá trị của sự may mắn là đem lại lòng biết ơn của mình đối với những gì thiêng liêng của trời đất. Chính sự quy thuận những giá trị cao quý mà trời đất dành cho mình là một trong những điểm mấu chốt để giữ cho con người được lương thiện. Nếu không tôn trọng những giá trị cao quý như vậy, không tôn trọng sự may mắn thì con người sẽ không khiêm tốn và con người sẽ không lương thiện. Cho nên, tôi không phải là người chơi số đề với thượng đế để may mắn nhưng tôi hết sức tôn trọng sự may mắn mà thượng đế dành cho tôi.
SV:Ông có nói rằng một trong những yếu tố tạo nên sự thành công là lương thiện. Nhưng nhiều người lại cho rằng trong xã hội bây giờ nhiều khi phải mưu mô một tý, phải đố kỵ, phải luồn lách thì mới sống được. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?
NTB: Bạn nên nhớ rằng, bây giờ ngoài phố sự lươn lẹo, sự đểu giả, sự lừa đảo nhiều đến mức lương thiện bắt đầu trở thành của quý rồi. Như tôi đi tìm người lao động, đi tuyển mộ binh sĩ là tôi đi tìm người luơng thiện và tôi thấy nó hiếm. Bạn vừa nói ra một thực tế rằng ngoài phố rất nhiều sự lươn lẹo. Nhưng một người có tầm nhìn là một người phải giữ nguyên sự lương thiện của mình, không để cho mọi sự lươn lẹo đồng hoá mình, bởi vì đến một lúc nào đó sự lương thiện sẽ trở thành tài sản tinh thần của bạn. Không ai để cho những kẻ không lương thiện đến gần mình. Những người thành đạt là những người dày dạn kinh nghiệm để có thể rút ra một kết luận rằng, những kẻ không lương thiện không được phép đứng cách mình 1m. Bạn muốn thành đạt thì bạn phải đứng gần hơn 1m đối với những người có kinh nghiệm.
SV:Ông có nói rằng ông nghiên cứu những gì mà những người nổi tiếng như Lenin thích nhưng ông cũng nói rằng con người nên là chính mình, không nên bắt chước ai cả. Ông có thể nói rõ hơn về hai vấn đề đó được không?
NTB: Nghe theo hoặc lắng nghe được tâm hồn của một con người khác rất xa với sự bắt chước. Tôi nghe một bản nhạc Lenin thích không phải là vì tôi thích Lenin mà tôi muốn tìm hiểu xem tại sao Lenin lại thích. Nói gì thì nói Lenin là một người thành đạt, một người thành đạt người ta thích gì thì không phải mình thích theo, mà một người thành đạt thích gì thì phải đặt ra câu hỏi tại sao người đó lại thích. Tức là ta đi nghiên cứu quy luật tinh thần của những kẻ thành đạt chứ không phải ta bắt chước họ. Tôi không khuyến khích ai bắt chước ai cả, bởi vì có bắt chước cũng không được. Nếu bắt chước mà được thì chúng ta sẽ có một tai nạn rất là khủng khiếp là tất cả những con khỉ sẽ lên giảng đường nói luyên thuyên cho chúng ta nghe, bởi vì khỉ bắt chước rất nhanh.
SV: Ông làm thế nào để dung hòa được giữa việc lo cơm áo gạo tiền với cuộc sống gia đình?
NTB: Nếu người ta sống một cách cơ học thì người ta buộc phải phân xử những mối quan hệ cơ học giữa cơm áo gạo tiền với gia đình của họ, chứ nếu người ta sống một cách đúng đắn thì người ta không phải giải quyết mâu thuẫn này. Ví dụ, tôi là một chủ công ty, mỗi tháng tôi kiếm được 100 triệu nhưng tôi chỉ đưa cho vợ tôi có 20 triệu, còn 80 triệu tôi đem giấu đi, khi đó mới phát sinh vấn đề gia đình và tiền. Nhưng nếu tôi nghĩ rằng tôi lấy cô ấy là để cô ấy sinh con cho tôi, còn tôi kiếm ăn là vì cô ấy và con cô ấy thì tiền lương tôi đưa về cho vợ giữ. Khi vợ là thủ quỹ của tất cả những chiến lợi phẩm mà mình kiếm được trong cuộc đời thì việc gì phải giải quyết mâu thuẫn giữa vợ và tiền?
SV:Nhưng làm thế nào để ông vừa hoàn thành được công việc kinh doanh, vừa chăm nom được gia đình?
NTB: Nếu gia đình tôi gồm những kẻ cần phải chăm nom thì tôi không phải là con người. Nếu những sản phẩm tinh thần của tôi gồm những kẻ phải chăm nom thì nguy hiểm lắm. Con tôi, vợ tôi phải tự chăm nom lấy mình bởi vì họ là người bình đẳng với tôi. Tôi chưa bao giờ xem vợ tôi là một phó giám đốc gia đình cả, vợ tôi là đối tác của tôi tạo ra gia đình, cô ấy có giá trị bình đẳng với tôi. Tất cả các con đại bàng khi bay đều thả mồi về tổ. Nhiệm vụ của tất cả các con trống là bay để kiếm mồi, còn giữ con, giữ trứng ở trong tổ là việc của con mái, đấy chính là khoa học về giới. Không có mâu thuẫn nào như vậy xảy ra đối với những người làm việc vì gia đình. Người ta có thể sống xa vợ, có thể sống xa con nhưng không có nghĩa là không yêu gia đình. Các bạn tưởng những ông bố tốt không có nhược điểm à? Một ông bố yêu con mà sống gần con thì rất nguy hiểm cho con bởi vì đứa con sẽ được chiều chuộng theo cảm giác tự nhiên bản năng của người bố. Cho nên, tôi cho con tôi ra nước ngoài học rất sớm. Vợ tôi rất sốt ruột, cho rằng chúng còn bé nhưng tôi bảo rằng cần phải khắc phục tình trạng chúng trở thành những đứa con nhà giầu bằng cách cho chúng sống trong điều kiện của sinh viên nghèo. Mặc dù chúng tiêu tiền sẽ tốn hơn nhưng chúng vẫn là sinh viên nghèo bởi vì không phải chúng muốn gì là được nấy. Tất cả những mâu thuẫn ấy là mâu thuẫn của những mặt không chính đáng có trong đời sống. Nếu bạn yêu gia đình mình thật sự thì không bao giờ có những mâu thuẫn như vậy. Bạn đi làm thư ký chẳng hạn, nếu bạn yêu chồng bạn thật, ông giám đốc có thể tán tỉnh bạn nhưng ông ta không có chỗ trong tâm hồn bạn nếu chồng bạn đã chiếm chỗ ở đấy rồi. Còn nếu chồng bạn không đủ trọng lượng để có chỗ trong tâm hồn bạn thì sẽ có ai đó có thể nhảy vào, việc đó là việc tự nhiên.
Giáo viên:Lúc trước ông đã nói với các bạn sinh viên là ông không bao giờ thấy khó chịu trước những ý tưởng khác thường của cấp dưới. Khoa chúng tôi cũng rất khuyến khích sự phát triển của sinh viên. Chúng tôi nói với sinh viên rằng mỗi người cần phát huy một tiềm năng nhất định. Chính bản thân sinh viên phải cố gắng để khám phá để thể hiện mình, tìm hiểu mình là ai và chúng tôi những người làm công tác giáo dục cũng nhận cho mình một phần trách nhiệm là nuôi dưỡng và phát huy tài năng của sinh viên. Năm ngoái vì muốn khuyến khích tinh thần doanh nghiệp ở trong các bạn sinh viên nên cùng với việc khơi dậy sự sáng tạo, chúng tôi còn cho sinh viên tiếp xúc với các doanh nghiệp. Sau đó, các bạn sinh viên rất hào hứng đưa ra các ý tưởng kinh doanh. Khi chúng tôi nói rằng mỗi buổi lễ cuối năm ở đây là một sự kiện của các bạn và chúng tôi muốn các bạn tham gia vào thì các bạn ấy đưa cho chúng tôi rất nhiều dự án. Có dự án với tổng số tiền lên đến hơn 100 triệu để làm một show có bán vé. Nhưng các bạn sinh viên đưa ra ý tưởng mà không nghĩ rằng, thứ nhất với kinh nghiệm của mình có thế làm việc đó được không, thứ hai là ở tại thời điểm mà tất cả các nơi đều tổ chức những show như vậy thì liệu với chất lượng tổ chức của mình có thu hút được người xem không? Khi đó chúng tôi nói với các bạn ấy rằng phải đưa dự án chi tiết hơn nhưng các bạn ấy tỏ ra không hài lòng và cho rằng thầy cô không ủng hộ, không dân chủ. Từ hồi ấy đến giờ tôi vẫn băn khoăn không biết là các bạn ấy đã cảm thấy thực sự thuyết phục chưa hay vẫn cảm thấy không thoả đáng. Ông có thể gỡ giúp chúng tôi điều băn khoăn ấy?
NTB: Tôi hiểu rất rõ sự băn khoăn của chị nhưng tôi giải đáp bằng cách bình luận sự băn khoăn ấy. Sự băn khoăn đấy là một giá trị tinh thần bởi vì suy ra cho cùng thì chúng ta đang sống trong một thời đại mà con người vốn dĩ rất vô trách nhiệm, chẳng ai mất thì giờ để băn khoăn cả. Sự băn khoăn như thế là dấu hiệu của những quan hệ tốt đẹp giữa thầy cô giáo với sinh viên. Tôi có đọc một quyển sách của Dale Carnegie, trong đấy có một lời khuyên của một ông cha cố đối với con trai của mình "Con ơi, nếu con mới 20 tuổi mà con nghĩ con khôn hơn cha thì cha rất vui. Nếu con 25, 30 tuổi mà con nghĩ con khôn hơn cha thì cha để yên. 35 tuổi mà con nghĩ con khôn hơn cha thì cha rất buồn lòng nhưng đến 40 tuổi mà con vẫn nghĩ con khôn hơn cha thì cha sẽ đánh đòn con". Tôi chỉ chấp nhận những đề xuất điên điên, khùng khùng mà lúc nãy có bạn sinh viên đã hỏi với những người mới ra trường. Nhưng nếu sau 20 năm hoạt động mà người đó vẫn đưa ra những đề xuất có chất lượng điên điên, khùng khùng thì sẽ mất việc bởi vì anh ấy là người điên thật. Bất kỳ một nhà lãnh đạo, một nhà quản lý nào cũng phải đủ tự do để chấp nhận cái ngây ngô ban đầu cuộc đời của một con người nhưng phải đủ sáng suốt để can ngăn nó lúc nó đủ bản lĩnh để không phải phiêu lưu tinh thần thuần túy mà nó gây hại trên thực tế. Cho nên cùng với thời gian, các bạn sẽ chín chắn dần và giá trị của những đề xuất như vậy là nỗi xấu hổ sau đó một năm về nó. Sự xấu hổ của những đề xuất điên khùng của mình sau đó một năm chính là kỷ niệm tinh thần để gắn bó giáo viên với tất cả các sinh viên, nó tạo ra cái được gọi là lịch sử tình yêu giữa giáo viên và đời sống tinh thần của sinh viên. Nếu không có điều đấy, chúng ta không có nội dung sống. Không có cái dại dột, không có cái thời thơ ấu như vậy con người sẽ sống khô cứng vào những năm 40 của cuộc đời. Tất cả những dại dột, những ngây thơ, những nhí nhảnh, những ngô ngố ấy tạo ra lịch sử giá trị cá nhân và đấy là niềm vui tinh thần con người có được khi về già.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất Thịnh"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiHư học hư làm, hư tài
16/04/2014Nếu lãng quên lịch sử
13/02/2014Nguyên CẩnTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự Lập