Lấy dân làm gốc
Trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của mình, ở những thời điểm khó khăn, Ông Sáu Dân luôn thể hiện đầy đủ bản lãnh của mình ở tuổi thanh xuân và trung niên với tư cách một người chiến sỹ cầm súng ra mặt trận bảo vệ tổ quốc và lúc già dặn là với tư cách của một người đứng đầu Chính phủ lãnh đạo xây dựng đất nước trong giai đoạn hội nhập và đổi mới. Lăn lộn, vào sinh, ra tử cùng đồng chí, đồng bào trong chiến đấu, Ông Sáu Dân cũng đã từng chịu những nỗi đau mất mát to lớn, vợ và 3 người con thân yêu bị kẻ thù giết hại. Ông phải nén nỗi đau đó để đi đến trận đánh cuối cùng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đã có rất nhiều quyết sách mà Ông Sáu Dân đưa ra và trực tiếp tổ chức thực hiện, thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy sắc sảo, bộ óc thông tuệ của người lãnh đạo. Ông đã góp phần quan trọng vào việc hòa giải, hòa hợp dân tộc vì sự phát triển bền vững của đất nước. Dân của Ông Sáu Dân là toàn dân tộc Việt Nam, mọi người Việt Nam trên tinh thần hòa giải và yêu thương. Trong dân tộc, ở từng chặng đường chiến tranh hay hòa bình, tấm lòng và hoạt động của Ông Sáu hướng về gần gụi nhất với những người ở đầu sóng ngọn gió, gánh vác và hy sinh nhiều nhất, những người nghèo thiếu và thiệt thòi hơn cả, tập trung vào mấy tầng lớp động lực là trí thức, tuổi trẻ, người lính và sĩ quan thời chiến, nhà doanh nhân trong xây dựng và phát triển đất nước. Ông Sáu Dân là con người của sự hài hòa tình cảm và lý trí (tình và lý, chứ không phải lý và tình), con người mà tình nghĩa đầy lẽ phải và lẽ phải thấm đẫm tình nghĩa của con người với con người. Trong hoạt động xã hội, Ông Sáu Dân là con người của sự hài hòa giữa tư duy xa rộng, quan điểm cơ bản và cách làm thiết thực, cụ thể đến chi tiết. Trong cuộc sống, chung cũng như riêng, Ông Sáu Dân là con người của sự hài hòa giữa biết dâng đi và biết nhận về, biết cống hiến hết mình và biết thưởng thức đích đáng. Ông Sáu là con người của sự hài hòa giữa cõi người và sư sống (sự sống trong tự nhiên, mà con người cũng là một thành tố của tự nhiên, sự sống rộng lớn hơn và bao quát cõi người). Ông Sáu sống với những con người và cũng sống với những vùng đất, cảm nhận ý nghĩa và vẻ đẹp của cỏ cây, hoa lá, chim muông, sự dịu dàng và dữ dội của biển cả, sự hùng vĩ và uy nghiêm của núi cao, sự phì nhiêu và rộng lượng của đồng bằng, ánh nắng lộng lẫy của mặt trời, tia sáng lung linh của vầng trăng. Người chiến sĩ ấy rất nghệ sĩ, và người nghệ sĩ ấy rất chiến sĩ.
Lúc còn tại vị cũng như khi đã nghỉ hưu, Ông Sáu luôn say sưa, hết lòng vì sự phát triển của đất nước, lăn lộn ở những nơi gặp khó khăn cần tháo gỡ, và vô cùng gần gũi với mọi tầng lớp xã hội. Là người may mắn có nhiều dịp được làm việc trực tiếp dưới sự chỉ đạo của Ông Sáu, và cũng nhiều lần được thoải mái giãi bày tâm sự với Ông về “nhân tình, thế thái”, tôi không thể quên những lần cùng Ông lặn lội trên đồng ruộng, ngồi thuyền ngang dọc sông nước Nam bộ để rồi được nghe Ông giảng giải, khái quát, khẳng định một chiến lược “chung sống với lũ”. Ý tưởng của Ông chính là nhờ thấm nhuần quan điểm dạy của cổ nhân “dân vi bản”, hun đúc, suy ngẫm, lấy kinh nghiệm từ trong dân. Đó cũng là một triết lý sống sâu sắc, biện chứng và mạnh mẽ mà tôi cảm nhận, học được từ Ông Sáu để tự rèn luyện mình trong công việc cũng như cuộc sống. Ngẫm ra, triết lý sống ấy càng đúng trong thời điểm hiện tại khi mà đất nước ta và mỗi chúng ta đang và sẽ phải đối mặt lâu dài với những thách thức thông thường và bất thường.
.
Về quản lý kinh tế, nhớ lại thập niên 80 Nhà nước vẫn còn cấm sở hữu vàng. Tôi được nghe người có tránh nhiệm kể lại cuối thập niên 80, đất nước đang bước vào thời kỳ đổi mới nhưng còn gặp rất nhiều khó khăn về nguồn vốn. Lúc đó, đang giữ cương vị Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Ông Võ Văn Kiệt đã ký Quyết định (chưa đầy 2 trang) cho phép kinh doanh vàng, chỉ trong 2 tháng có hơn 100 cửa hàng mua bán, mang sức sống mới cho nền kinh tế. Suy rộng ra ngày nay, việc cấm kinh doanh vàng bạc trái phép, đô la hóa chợ đen là các giải pháp tình thế có tác dụng nhất thời nhưng cái chính là không được để đô la, vàng cất trữ, nằm chết trong dân. Để cho người dân tin vào đồng tiền của Việt Nam, Nhà nước phải đầu tư công cho có hiệu quả, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân phát triển, biến nguồn vốn đô la và vàng cất trữ trong dân thành vốn kinh doanh.
Có lẽ, ông Sáu Dân còn được xem là một trong những người tiên phong trong việc đưa Việt Nam mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới. Cho tới cuối thập niên 80 thì nền kinh tế Việt Nam vẫn là kinh tế chỉ huy, trì trệ, lạc hậu. Một quốc gia có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiều sông ngòi kênh rạch, hai đồng bằng rộng lớn tươi mát là tiềm năng vựa lúa cho cả thế giới nhưng phải chịu cảnh thiếu đói triền miên chỉ do sự ấu trĩ lạc hậu trong quản lý kinh tế. Một anh Việt Kiều quay lại Sàigon Việt Nam vào những năm cuối thập kỷ 80 bỗng thấy ngạc nhiên vì các ngôi nhà đều bị ám khói vì đun nấu bằng củi, than đá và rơm trong khi trước 1975, Sài gòn đã dùng bếp ga. Sài gòn đói với bột mì, lúa mì bo bo, và các loại ngũ cốc được phân bổ theo tem phiếu tới các hộ gia đình, theo một sự tính toán chủ quan của một người nào đó tính thay cho nhu cầu của cả thành phố. Các hộ gia đình đều phải tận dụng các khoảnh sân nhà để trồng rau, nuôi heo gà mới mong có thêm cái gọi là “tăng gia sản xuất” nhưng nghèo vẫn hoàn nghèo.
.
Nhiều người cho rằng việc mở cửa hội nhập ở Việt Nam là hành động bắt buộc, vì quá nghèo khổ do nền kinh tế chỉ huy lạc hậu, bí quá đành phải mở cửa! Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận sự can đảm của những người tiên phong dám nghĩ dám làm đầu tiên. Thời đó, nếu không can đảm, dám làm, dám chịu trách nhiệm thì cũng dễ bị “chụp mũ” và các phe phái khác tìm cách đẩy ra. Đây âu cũng là bản lĩnh chính trị của ông Sáu. Nếu không mở cửa hội nhập, có thể hình dung là nền kinh tế chúng ta ngày càng chậm lụt sau gần hai mươi năm kể từ 1975 đã phải lạc hậu, không biết tình hình thế giới ra sao, tiến bộ và thay đổi vũ bão như thế nào. Các tin tức về sự thiếu vắng giao thương, đóng cửa với thế giới của các quốc gia như Bắc Hàn, Cuba vv…dẫn tới một đời sống gian khổ của người dân như thế nào, tới nay chúng ta đã được biết, và do vậy càng phải thấy tầm quan trọng của những người dám tiên phong đốt lên những ngọt lửa nhỏ, khai mở cánh cửa nặng nề, những thành trì cũ kỹ lạc hậu, những thành trì có gốc rễ sâu thẳm từ tư tưởng và lý thuyết lạc hậu, không chịu hấp thu những kiến thức cập nhật của thời đại mới. Cái hay của những người dám nghĩ, dám làm như Ông Sáu Dân là dám có tư duy đột phá, chịu lắng nghe cái mới, hấp thu các tinh hoa của tri thức mới, luôn làm mới mình, luôn muốn cống hiến sức lực cho đất nước cả khi ở thời trai trẻ lẫn ở tuổi xế chiều. Ông Sáu với nhiều hình ảnh còn đọng lại trên báo chí với các hoạt động đa năng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, thật nhiều năng lượng, không biết mệt mỏi là tấm gương sáng cho những ai tự nhận mình là con người “kách mệnh”, những con người không biến mình thành tầm thường, phải làm nhiều và rất nhiều hơn nữa mới mong báo đáp phần nào công đức của thế hệ cha ông, những người tiên phong đi trước và niềm tin của nhân dân đang giao phó trọng trách cho những người được lịch sử đặt vào các vị trí quan trọng nắm quyền quản lý vận mệnh của đất nước dân tộc.
Trong dịp kỷ niệm 3 năm, ngày Ông Sáu Dân đi xa, và trong những ngày nước sôi, lửa bỏng này, thật xúc động và vững lòng khi nghe Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dõng dạc, mạnh mẽ tuyên bố trong bài phát biểu tại buổi lễ hưởng ứng ngày đại dương thế giới và tuần lễ biển & hải đảo Việt Nam 2011 vào tối 8/6 tại Nha Trang :”Nhân dân Việt Nam, đất nước Việt Nam có đủ ý chí quyết tâm và sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc để giữ gìn bảo vệ các vùng biển và hải đảo của Việt Nam. Chúng ta kiên trì, chủ trương giải quyết các tranh chấp ở biển Đông bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế nhất là công ước luật biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc đồng thời phản đối mạnh mẽ và kiên quyết đấu tranh với các hoạt động vi phạm chủ quyền và lợi ích chính đáng trên biển của chúng ta”.
Theo Việt Nam sử lược khi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn sắp mất (năm 1300) đã nói với vua Trần Ánh Tông : ”Dùng binh phải dồn lòng như cha con một nhà, thì mới có thể đánh được. Cách ấy cốt phải tự lúc bình thì khoan sức cho dân, để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là cái thuật giữ nước hay hơn cả”. Hồ Chủ Tịch cũng từng nhắc về câu nói của người xưa :”Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Cũng chính tư tưởng “lấy dân làm gốc” ấy đã tạo nên phong cách, bản lãnh Võ Văn Kiệt. Và hôm nay, tư tưởng ấy, cũng vẫn là nền tảng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các quyết sách, hành động của những đồng chí, những người kế nhiệm Ông. Trí tuệ và bản lãnh Võ Văn Kiệt- Sáu Dân đang được nhắc đến nhiều hơn bao giờ hết. Học tập, rèn luyện trí tuệ bản lãnh ấy, sẽ tạo nên sức mạnh để chúng ta “vươn ra biển lớn” và cho ra đời những quyết sách đúng đắn hợp lòng dân và quy luật phát triển bền vững.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpSống chậm giữa đời nhanh
02/07/2010Lê Thiếu NhơnTương lai trong lòng quá khứ
06/02/2009Nguyễn QuânKế thừa tinh thần yêu nước truyền thống của dân tộc ta trong bối cảnh toàn cầu hóa
02/02/2010Mai Thị QuýBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà Đoá