Giải thích về các nhà ngoại cảm Phan Bích Hằng và Nguyễn Văn Nhã
Sau khi đọc bài viết của giáo sư Trần Phương “Tìm hài cốt liệt sĩ, một hành trình đầy bí ẩn”. Trong bài viết này đoạn cuối, chúng tôi thấy giáo sư có đưa ra nhiều câu hỏi để gợi ý giúp cho Trung Tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng Của Con Người qua tựa đề “Khám phá sự bí ẩn”.
Theo nhận xét của chúng tôi những hiện tượng đã xảy ra trong chuyến đi tìm hài cốt của cô em gái của giáo sư Trần Phương, dù cho mười cái Trung Tâm Nghiên Cứu và tập trung tất cả các nhà khoa học trên thế giới cũng không giải thích được, trừ ra sự tiến bộ của khoa học đã tạo ra được một bộ óc điện tử như bộ óc của con người thì mới xác định được thế giới siêu hình có hay không. Và những hiện tượng con người có khả năng thấy và nói chuyện với ma cũng như làm thông dịch lại cho chúng ta biết.
Đọc qua những câu hỏi của giáo sư, chúng tôi thấy đây là những câu hỏi của mọi người, chứ không riêng gì của giáo sư. Những câu hỏi của giáo sư đại diện cho giới trí thức đang bị những hiện tượng kỳ lạ, dày vò tâm tư mà không thể giải đáp được.
Với một số ngôn ngữ hiện có, khó mà giải thích cho quý bạn hiểu biết một cách rành rẽ về những hiện tượng này, nhưng chúng tôi sẽ cố gắng. Tin hay không tin là quyền ở các bạn. Phải chi chúng tôi có được nhiều người như chúng tôi, thì chắc chắn các bạn sẽ dễ tin hơn.
Trước khi nghe chúng tôi trình bày những hiện tượng này. Chúng tôi xin có những lời khuyên các bạn: “Trong cuộc sống của con người điều quan trọng và cần nhất là đạo đức, cái gì phi đạo đức là chúng ta không chấp nhận, bởi vì có thế giới siêu hình tác động vào cuộc sống của loài người thì có sự phi đạo đức”.
Ví dụ: Con cháu làm điều tội lỗi phạm pháp luật, bị tù tội, tai nạn, bệnh tật khổ đau v.v... Những linh hồn ông bà cha mẹ, vì thương con cháu nên phù hộ chúng, cho thoát nạn, tai ương, họa khổ v.v...hoặc những linh hồn này thù oán ai, khiến cho họ đau bệnh, hoặc gặp tai nạn này tai nạn khác. Và như vậy là một việc làm phi đạo đức. Còn nếu thế giới linh hồn người chết mà không tác dụng lợi ích cho cuộc sống của con người thì thế giới linh hồn có để làm gì? Hay để làm hao tốn tiền bạc, của loài người, trong khi những linh hồn này không làm ra vật chất, mà đòi hỏi vật chất thế gian: Trà nước, thuốc Cáp Tăng, giấy tiền vàng mã (cháu Hằng thông dịch lại), quần áo, nhà cửa, kho đụn, xe cộ, tivi, tủ lạnh, v.v...Đó có phải thế giới linh hồn là một thế giới phi đạo đức không ?
Thưa các bạn! Chúng tôi đã nhờ sức Tứ Thánh Định của Phật giáo mà biết được những hiện tượng phi không gian và thời gian này xảy ra do năng lực nào và năng lực ấy từ đâu xuất phát làm nên những hiện tượng kỳ lạ này?
Sau khi đọc xong bài “Tìm hài cốt liệt sĩ”. Cái cảm tưởng đầu tiên của chúng tôi là xúc cảm, thương đau cho những người anh, người chị, người em trai và người em gái của chúng tôi, khắp nơi trên đất nước Việt Nam, quê hương này, đã vì tổ quốc chịu biết bao nhiêu cực hình, cay đắng rồi hy sinh mạng sống của mình cho dân, cho nước, cho Đảng. Để ngày nay chúng ta, những người còn sống, thọ hưởng sự độc lập, tự do, bình đẳng và hãnh diện với mọi người khắp năm châu.
Một đất nước bị nô lệ ngoại xâm, thì dân nước đó phải chịu khổ biết dường nào. Vì nhân quyền không có. Nếu đứng lên chống giặc ngoại xâm thì xương máu phải tô thắm đỏ mảnh đất này.
Chúng tôi cũng có người em trai đã hy sinh trong trận Đồng Khởi Tua Hai Tây Ninh, xác em tôi được chôn vùi nơi bìa rừng. Chiến tranh chấm dứt thì nơi đó đã trở thành nơi dân cư trù phú, vì thế chúng tôi không thể tìm hài cốt em tôi được. Và chúng tôi thiết nghĩ, xương thịt của em tôi dù chôn vùi bất cứ nơi đâu trên mảnh đất quê hương này, thì nó cũng xứng đáng là một công dân Việt Nam yêu nước, yêu quê hương, yêu tổ quốc và thương yêu dân tộc của nó.
Giáo sư Trần Phương thương khóc cho cô em gái của mình phải chịu đựng những cực hình khổ đau nhất đời của những con người không phải người, hung ác hơn loài ác thú. Hôm nay giáo sư đã tìm được hài cốt cô em gái của mình, cô Khang.
Còn chúng tôi thì sao? Các anh, các chị và các em gái của chúng tôi đã hy sinh thân mình cho tổ quốc, cho dân tộc, cho quê hương xứ sở này. Hôm nay có người tìm được hài cốt đem về nghĩa trang liệt sĩ, nhưng có người chưa tìm được còn nằm rải rác khắp nơi trên mảnh đất quê hương này.
Thân cát bụi trả về cho cát bụi, còn linh hồn thì sao, có hay là không có?
Chúng tôi không trích ra từng đoạn để trả lời giáo sư về thế giới linh hồn, mà cho in cả bài này vào tập Đường Về Xứ Phật. Vì bài này nói lên được ý nghĩa kiên cường, bất khuất của một dân tộc anh hùng, dân tộc Việt Nam.
Sau khi tìm hài cốt cô em gái của mình giáo sư Trần Phương không còn đứng yên trên vị trí khoa học nữa mà đã bị đảo lộn tư tưởng bởi những nhà ngoại cảm làm sống lại cái thế giới siêu hình. Rồi đây ai cũng nghĩ: sau khi chết còn có sự sống. Sau khi chết còn có sự sống, thì tệ nạn mê tín dị đoan lại sẽ gia tăng lên nhiều hơn nữa, thì đạo đức lại xuống dốc.
Giáo sư nêu lên những câu hỏi để mong cầu những ai có thể giải đáp cho mình, cho mọi người những điều mắt thấy tai nghe mà riêng tri thức của giáo sư cũng như mọi người khác không thể hiểu và giải thích được. Những câu hỏi ấy giáo sư đã lấy tên: “KHÁM PHÁ SỰ BÍ ẨN”. Có nghĩa là ai trả lời được những câu hỏi của giáo sư là khám phá ra sự bí ẩn của thế giới siêu hình.
Đọc bài này chúng tôi cảm thấy vô tình giáo sư đã làm sống lại cái thế giới siêu hình mà từ lâu các nhà khoa học không chấp nhận thường tìm mọi cách để chứng minh cho mọi người biết thế giới siêu hình không có, nhưng khả năng của khoa học còn phải tiến xa hơn nữa và tiến xa hơn nữa thì mới có mong khám phá ra những sự bí ẩn này.
Còn hiện giờ thì sao? Thì cứ mặc tình cho mọi người mê tín dị đoan. Do kẽ hở này mà một số tôn giáo, một số người lợi dụng khoa học không giải thích được thế giới siêu hình mà bịa ra nhiều điều mê tín, dị đoan để làm tiền thiên hạ mà không pháp luật nào bắt tội họ được.
Đứng trước những sự lừa đảo lường gạt người bất chánh của Đại Thừa giáo, của các thầy phù thủy, của đồng, bóng, cốt, tự xưng là Phật, Thánh, Tiên, bà Chúa Tiên, Chúa Xứ, quỷ, ma, cô, cậu v.v...
Bài viết này của giáo sư Trần Phương, là một cái cớ để cho những người vô loại này thừa “nước đục thả câu” mà phát triển giáo pháp mê tín, thì đạo đức nhân bản - nhân quả làm người sẽ mất dần và loài người không còn là người nữa mà là ác thú, ác quỷ.
Hiểu được điều này chúng tôi không thể làm ngơ. Vì ích lợi cho mọi người và vì nền đạo đức của con người trên hành tinh này, vì thế chúng tôi xin mạo muội trả lời những câu hỏi của giáo sư không phải để khám phá những điều bí ẩn của giáo sư mà chỉ nêu lên một sự thật “Thế giới linh hồn không có” để đem lại sự lợi ích cho mọi người, không còn bị người khác lợi dụng sự chưa hiểu của mình mà làm những điều lừa gạt bất chánh.
Linh hồn là do tưởng tri của con người còn sống
Chúng tôi xin trả lời câu hỏi thứ nhất của giáo sư:
1- Câu hỏi giáo sư đã xác định: “Tôi căn cứ để tin rằng đã gặp linh hồn em tôi, anh tôi và chị tôi, cả linh hồn cụ Giám là người chôn cất và linh hồn cụ An là người chứng kiến. Cháu Hằng đã nhận dạng được linh hồn, thậm chí còn nhận diện được linh hồn qua tấm ảnh, đã được nghe tiếng nói của linh hồn. Như vậy linh hồn phải tồn tại dưới một dạng vật chất nào đó, có hình thù, có khả năng phát ra tiếng nói. Đã là một dạng vật chất thì vật lý học, hóa học, y học, sinh học, với những phương tiện quang học và điện tử tinh vi, hẳn sẽ có ngày tìm ra. Các nhà khoa học Việt Nam có thể đóng góp gì theo hướng đó?”
Cách đây 2548 năm có một người đã xác định rằng: “không có thế giới siêu hình” có nghĩa là không có đời sống sau khi chết Ngài đã chia thân người làm năm phần:
- Phần thứ nhất là sắc uẩn.
- Phần thứ hai là thọ uẩn.
- Phần thứ ba là tưởng uẩn.
- Phần thứ tư là hành uẩn.
- Phần thứ năm là thức uẩn.
Một người chết năm uẩn này đều tan rã không còn một chút xíu nào cả. Người xác định điều này là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Vậy thì cái gì còn lại gọi là linh hồn của con người?
Theo cái nhìn của Phật giáo thì một con người là do năm duyên hợp lại mà thành ra. Và xa hơn nữa là vạn vật trên thế gian này đều hiện hữu, sự hiện hữu có mặt của một vật đều do nhiều duyên hợp lại. Cho nên một thế giới mà có được thì phải có nhiều duyên kết hợp mới lập thành. Một thế giới không thể nào chỉ có một vật thể đơn điệu được.
Ví dụ 1: Một cái cây kia, nếu không có đất, nước, gió, không khí và nhiệt độ, nóng lạnh, ẩm thấp, nắng mưa, v.v...thì cây kia không thể sống được.
Ví dụ 2: Một con người sanh ra ở đời, nếu không có cỏ cây, thực phẩm để nuôi sống thì con người cũng không sanh ra được, nếu có sanh ra được thì cũng không sống được. Cỏ cây, con người và vạn vật không có sự hiện hữu trên hành tinh này thì làm sao gọi là thế giới.
Vì thế, nếu quả chăng con người có sự sống sau khi chết, thì thế giới của người chết phải có một môi trường sống riêng cho linh hồn, chứ đâu cần gì chúng ta phải cúng những thực phẩm mà những thực phẩm ấy chỉ nuôi sống cho những duyên hợp hiện hữu của nó, chứ đâu phải những thực phẩm của chúng ta là để cho linh hồn thọ dụng. Vì thế, cúng lễ những thực phẩm hoặc đốt hương, vàng mã của thế giới hữu hình cho thế giới vô hình thì quý vị suy nghĩ có đúng không? Hay làm một việc nhảm nhí?
Nếu quả chăng có thế giới siêu hình thì những linh hồn đó, phải có một hình dáng cố định, vì thế giới siêu hình là thế giới thường hằng không thay đổi thì không thể nào linh hồn lấy hình dáng của con người làm hình dáng của mình. Khi mà hình dáng của con người vô thường không cố định chỉ trong một đời người mà đã thay đổi nhiều lần: trẻ có hình dáng khác, thanh niên có hình dáng khác và già có hình dáng khác, huống là đời này mang hình dáng này đời sau mang hình dáng khác. Xét như vậy chúng ta thấy linh hồn có đúng không?
Cho nên, thế giới hữu hình của chúng ta do các duyên hợp thành, vì do các duyên mà thành nên có sự vô thường thay đổi liên tục. Vì vậy một con người mới sanh ra cho đến 7, 8 chục năm sau thì không giống nhau. Chúng ta hãy quan sát một con người từ hình dáng của một đứa bé mới sanh so sánh với hình dáng của một ông cụ già 7, 8 mươi tuổi thì hai hình dáng này không giống nhau, như vậy chứng tỏ sự vô thường thật sự, như trên chúng tôi đã nói.
Như các bạn thường nghĩ và cho linh hồn là một vật thể không thay đổi. Vì thế linh hồn là bất tử, nên thường đi tái sanh luân hồi từ thân này, đến thân khác. Thân thì có trẻ, có già, có chết. Còn linh hồn thì không già, không trẻ và không chết. Như vậy cháu Bích Hằng phải xem bức ảnh của cô Khang rồi mới nhận ra linh hồn của cô Khang thì như vậy không đúng. Vì sao vậy? Là vì linh hồn của cô Khang bây giờ không còn là hình dáng của cô Khang nữa, mà là hình dáng bất di bất dịch của linh hồn. Khi linh hồn ấy còn mang thân xác của cô Khang thì hình dáng ấy là hình dáng xác thân của cô Khang, chứ đâu phải là hình dáng linh hồn của cô Khang phải không thưa quý vị? Khi cô Khang chết thì hình dáng của cô Khang cũng không còn, thì như vậy linh hồn của cô Khang phải trở về với hình dáng nguyên thủy của nó, thì làm sao linh hồn có hình dáng giống cô Khang được. Vì linh hồn là một vật không thay đổi, như chúng tôi đã nói ở trên.
Xét ở góc độ này thì cháu Bích Hằng gọi hồn cô Khang về là một năng lực trong thân ngũ uẩn của cháu Bích Hằng tạo ra linh hồn của cô Khang, chứ không phải có linh hồn cô Khang thật, vì thế cháu phải nhìn hình ảnh cô Khang rồi mới tạo ra hình ảnh cô Khang được.
Do đó chúng ta suy ra, nếu có thế giới linh hồn của người chết thì những linh hồn ấy không có hình dáng giống như chúng ta. Tại sao vậy?
Tại vì một linh hồn phải trải qua nhiều lần tái sanh luân hồi, do đó mỗi lần tái sanh là mỗi lần có hình dáng khác nhau của thân xác, có nhiều hình dáng khác nhau như vậy thì làm sao linh hồn cô Khang giống cô Khang được?
Tất cả những sự việc này lần lượt chúng tôi sẽ cố gắng vén bức màn bí ẩn để quý vị không còn thấy nó là bí ẩn nữa.
Khám phá sự bí ẩn của anh Nhã
Trạng thái ngoại cảm của anh Nhã rất rõ nét, vì anh làm việc ngoài ý thức của anh, có nghĩa là trong đầu anh nghe nói tên (Nhương, Nhường, Nhượng) hoặc tự điều khiển anh viết hoặc vẽ bản đồ chứ riêng anh không có chủ ý viết hoặc vẽ. Tự trong đầu anh có sự điều khiển trong vô thức. (“Tôi thấy trong đầu tôi hiện ra như thế nào thì tôi vẽ như thế ấy, tôi cũng chẳng hiểu nữa”). Đây là lời của anh Nhã nói, khi giáo sư Trần Phương hỏi. Và anh còn nghe được những âm thanh trong tai (“Tôi thấy trong tai tôi như có âm thanh ấy”).
Qua sự trình bày của anh Nhã chúng tôi xin giải thích để quý vị rõ. Do đâu điều khiển mà anh Nhã đã vẽ được bản đồ của một vùng chưa bao giờ đi đến và vị trí địa thế ngôi mộ cũng được xem là đúng ở cự ly rộng.
Trong bộ óc của con người có nhiều nhóm tế bào não, mỗi nhóm tế bào não đều làm việc theo phận sự của nó.
Ví dụ: Một người đang thức và đang làm một việc gì đó, hay đang tư duy suy nghĩ về một vấn đề gì, thì nhóm tế bào não thuộc về ý thức hoạt động, làm việc, trường hợp đó cũng giống như chúng tôi đang tư duy, suy nghĩ để viết sách và viết như thế nào để quý bạn dễ hiểu và hiểu một cách cụ thể hơn.
Chúng ta có thể gọi nhóm tế bào não bộ này là nhóm tế bào não bộ ý thức.
Còn trường hợp chúng ta đang ngủ mà bị chiêm bao thì nhóm tế bào não nào làm việc đây?
Chúng tôi xin giải thích, khi chúng ta đang ngủ thì toàn bộ nhóm tế bào thuộc về ý thức, chắc chắn phải ngưng hoạt động, như lúc ngủ mắt không thấy vật, tai không nghe âm thanh, ý không phân biệt, v.v... như vậy rõ ràng là nhóm tế bào ý thức chúng ta ngưng hoạt động. Vậy cái gì hoạt động trong giấc chiêm bao?
Xin thưa, khi nhóm tế bào não thuộc về ý thức không hoạt động, thì nhóm tế bào não thuộc về tưởng thức hoạt động, do nhóm tế bào tưởng thức này hoạt động nên người ta mới có chiêm bao.
Còn trường hợp của anh Nhã thì hai nhóm tế bào não trong óc anh nó kết hợp (câu hữu) làm việc với nhau, và sự kết hợp làm việc này mới xảy ra với anh chứ trước kia anh không có trạng thái này.
Ở đây, chúng ta cần phải hiểu thêm về nhóm tế bào não thuộc về ý thức, khi nó hoạt động thì không vượt qua được không gian và thời gian, vì thế khoảng cách xa, như ngăn sông, cách núi, hoặc dưới lòng đất, dưới đáy biển đại dương, v.v... thì nó không thể thấy biết được. Về thời gian, nó bị chia cắt có quá khứ, vị lai và hiện tại, quá khứ nó không nhớ biết, vị lai thì mờ mịt không rõ. Ngược lại, nhóm tế bào não bộ thuộc về tưởng thức, khi nó hoạt động thì nó vượt qua hàng rào không gian và thời gian, nên thời gian và không gian không còn chia cắt và trải dài. Vì thế nó bắt gặp hay nói cách khác là giao cảm với những gì đã xảy ra ở quá khứ và vị lai.
Ở trường hợp này nhóm tế bào não tưởng thức của anh Nhã thì quá rõ ràng, không có trạng thái đồng cốt như cháu Bích Hằng, nhưng nó hoạt động chưa chính xác 100%. Vì tưởng thức của anh tự nó hoạt động chứ không phải do anh triển khai, điều khiển, nên mức độ hoạt động của nó chưa hoàn chỉnh và chính xác.
Khi tưởng thức hoạt động thì anh Nhã cảm thấy như mình không chủ động, tự trong đầu nó điều khiển như thế nào thì anh làm theo như thế ấy, nhưng ý thức của anh vẫn biết rõ ràng, thậm chí những âm thanh nói trong tai, anh vẫn nghe và biết rõ. Xét trường hợp trong đầu anh Nhã, thì trong đầu anh làm việc hai phận sự:
1- Làm việc bị hạn cuộc trong không gian và thời gian, có nghĩa là không vượt ra khỏi thời gian chia cắt và không gian trải dài hay bị ngăn cách.
2- Làm việc không bị hạn cuộc trong không gian và thời gian, có nghĩa là vượt qua không gian và thời gian. Sự làm việc này gọi là làm việc trong vô thức.
Người tu theo đạo Phật khi nhập được Tứ Thánh Định thì người ta hiểu biết rất rõ ràng. Trường hợp anh Nhã, ý thức của anh kết hợp với tưởng thức của anh hoạt động hai mặt:
1- Hữu thức
2- Vô thức
Tóm lại trường hợp của anh Nhã trong một bộ óc của anh làm việc hai phận sự hữu hình và vô hình, hay nói cách khác cho dễ hiểu hơn là bộ óc anh có phần làm việc bị hạn cuộc không gian và thời gian và có phần làm việc không bị hạn cuộc không gian và thời gian, nhưng chưa chính xác 100%.
Cho nên sự bí ẩn của anh Nhã không có gì bí ẩn, anh sử dụng được những tế bào não ý thức và những tế bào não tưởng thức, khiến chúng hoạt động khi ý muốn anh khởi ra.
Tóm lại, sự bí ẩn của anh Nhã thì không có gì là bí ẩn cả, chỉ có bộ óc của anh làm việc được hai phần: “phần ý thức và phần tưởng thức”.
Khám phá sự bí ẩn về cháu Bích Hằng
Trường hợp cháu Bích Hằng thì không giống trường hợp anh Nhã, hiện tượng của cháu Hằng xảy ra giống như có một linh hồn người chết nhập vào như thật.
Khi trực tiếp chứng kiến năng lực của tưởng uẩn con người. Nhất là trường hợp của cháu Bích Hằng, khiến cho giáo sư Trần Phương không còn đứng vững trên lập trường khoa học nữa, ông đặt ra nhiều câu hỏi: “Như vậy linh hồn phải tồn tại dưới một dạng vật chất nào đó, có hình thù, có khả năng phát ra tiếng nói. Đã là một dạng vật chất thì vật lý học, hóa học, y học, sinh học v.v...Với những phương tiện quang học và điện tử tinh vi, hẳn có ngày tìm ra. Các nhà khoa học Việt Nam có thể đóng góp gì theo hướng đó?”
Còn lâu lắm các nhà khoa học Việt Nam mới có thể chứng minh và giải thích những hiện tượng đó bằng hóa học, sinh học, y học, lý học, v.v...Còn bây giờ thì sao? Hay để cho nhân dân Việt Nam sống trong mê tín, phải chịu tốn hao với một số tiền bạc vô nghĩa (đốt tiền vàng mã, cúng sao giải hạn, cầu an, cầu siêu, v.v...).
Khi đọc bài của giáo sư Trần Phương, chúng tôi thấy, nếu bài này được phổ biến sâu rộng trong khắp nước, mà các nhà khoa học Việt Nam không có tiếng nói, thì chắc chắn nạn mê tín, dị đoan sẽ lan rộng khắp nơi. Và sẽ có một số người lợi dụng trường hợp này mà gây tạo ra nhiều loại mê tín khác nữa để lừa đảo người.
Chúng tôi đọc bài tâm nguyện của một cư sĩ M.N.C.S ở Long Hải nói rằng: “Những nhà ngoại cảm này thường khoe khoang, nhà nước đang tìm kiếm những người tài như họ để trưng dụng về việc quốc phòng”. Lời nói này chúng tôi e rằng những hạng người này “thừa nước đục thả câu”, lợi dụng trạng thái tưởng thức không có không gian và thời gian, giao cảm mọi sự việc xảy ra tạo dựng thế giới siêu hình để lừa đảo mọi người, chứ từ xưa đến giờ chưa có lịch sử nước nào ghi công lao của những người làm đồng, cốt và những nhà ngoại cảm, nhờ lên đồng, nhập cốt và ngoại cảm mà ngăn giặc, đuổi giặc, giữ nước, dựng nước, bắt những kẻ trộm cướp giết người, hiếp dâm, giữ gìn trật tự, an ninh cho quê hương, xứ sở.
Vì biết rằng các nhà khoa học không thể chứng minh được những hiện tượng hoạt động của tưởng thức, nên trong các tôn giáo người ta cố ý tu tập để triển khai tưởng thức hoạt động ngõ hầu lấy đó tạo dựng thế giới siêu hình và thần thông để lừa đảo mọi người. Vì không nhận ra những hiện tượng đó nên mọi người tin tưởng gia nhập vào tôn giáo, nuôi hy vọng khi chết đi sẽ được sanh về nơi đó (Cực Lạc, Thiên Đàng, Niết Bàn), hay có những thần thông pháp thuật.
Do phong thổ, thời tiết, thức ăn nước uống tại địa phương, hoặc do tai nạn xảy ra gây ảnh hưởng não bộ, hoặc sự phát triển hoạt động của não bộ không đồng đều, khiến cho tưởng thức hoạt động nhiều hơn ý thức (trường hợp cháu Bích Hằng), hoặc ý thức và tưởng thức cùng hoạt động (trường hợp như anh Nhã) Vì thế biến họ từ một con người bình thường trở thành đồng, cốt và các nhà ngoại cảm. Một con người có khả năng đặc biệt.
Chúng ta không hiểu được năng lực của tưởng thức khi nó hoạt động không giống như ý thức chút nào cả:
1- Nó hoạt động rất đặc biệt tại một điểm, nên không có không gian và thời gian, khoa học không thể chứng minh được.
2- Nó giao cảm được mọi âm thanh sắc tướng, vì các từ trường của nó. Các nhà khoa học có thể chứng minh được.
3- Nó biến hiện ra muôn hình sắc tướng của những người đã chết không sai một nét nào cả. Đó là năng lực duyên hợp của tưởng thức. Các nhà khoa học không thể chứng minh được, vì nó không phải là vật lý học, hóa học, y học, sinh học, v.v...
4- Nó tạo ra một người thứ hai đang tiếp chuyện với ý thức của nó. Đó là năng lực hợp duyên của tưởng thức, khoa học không thể chứng minh được.
5- Vì không có không gian, nên nó nhìn suốt trong lòng đất thấy mọi vật và bất cứ địa phương nào ở nơi đâu, cách xa bao nhiêu, nó cũng biết được. Khoa học có thể chứng minh được vì đó là từ trường của tưởng thức.
6- Vì không có thời gian nên bất cứ chuyện gì đã xảy ra hoặc sắp xảy ra bao lâu nó cũng biết được. Và biết một cách rất cụ thể. Đó là từ trường của tưởng thức giao cảm và bắt gặp những hành động, hình ảnh và âm thanh của mọi sự việc đã xảy ra còn lưu lại trong môi trường sống, khoa học có thể chứng minh được.
Cũng như những sự việc sắp xảy ra trong môi trường sống nhân quả của mỗi con người, nó đều bắt gặp và giao cảm được cả, khoa học không có thể chứng minh được.
Hiện giờ giáo sư Trần Phương hy vọng vào các nhà khoa học Việt Nam, quang học và điện tử tinh vi để giải đáp: “Linh hồn có hay không?”, nhưng giáo sư phải còn chờ đợi lâu lắm, có lẽ giáo sư sẽ chết mất mà những câu hỏi này chưa được giải đáp.
Là một nhà tu tập thiền định theo Phật giáo, tự bản thân chúng tôi đã trực tiếp truy tìm thế giới siêu hình để thấy, nghe, hiểu biết, thì chúng tôi biết nó từ đâu xuất hiện những hiện tượng đó. Vì thế chúng tôi xác định quả quyết: “Thế giới siêu hình không có, chỉ là năng lực tưởng thức của mỗi con người còn đang sống tạo ra, chứ người chết rồi thì không còn lưu lại một vật gì cả”. Xưa, thái tử Sĩ Đạt Ta khi tu thành Phật, Ngài cũng xác định: “Thế giới siêu hình là thế giới của tưởng tri”.
Câu hỏi thứ hai của giáo sư nêu lên tình cảm vui, buồn, quan tâm, ước muốn, giận dữ, tranh cãi của linh hồn để rồi nêu lên câu hỏi: Có một thế giới linh hồn ngoài thế giới con người đang sống không? Thế giới linh hồn hoạt động như thế nào? Có khả năng tác động gì vào thế giới của con người đang sống? Để đáp ứng mong muốn của linh hồn người thân, người sống dâng đồ cúng lễ, tiền bạc đồ dùng hằng ngày (dưới dạng vàng mã) là đúng hay nhảm nhí? Linh hồn có tiêu vong đi không, hay là tồn tại mãi mãi?
Để trả lời những câu hỏi này:
1- Ngoài hai trạng thái hình và bóng của cuộc sống con người hiện hữu trên hành tinh này, thì không còn có thế giới linh hồn nào khác nữa. Thế giới linh hồn mà người ta cảm nhận được là do năng lực của tưởng thức trong mỗi người giao cảm mà tạo ra. Năng lực ấy được phát triển là do tu tập các loại thiền định tưởng hoặc bị tai nạn hay bị một cú “sốc” gì trong cuộc đời, khiến cho phần nhóm tế bào não tưởng thức hoạt động, đó là trường hợp của các nhà ngoại cảm.
2- Vì không có thế giới linh hồn nên nó không có sự sinh hoạt riêng, không có sự sống riêng. Do tưởng thức của con người còn đang sống, nên sự sinh hoạt của nó cũng mang đầy tính chất của con người: tình cảm vui, buồn, quan tâm, ước muốn, giận dữ, tranh cãi v.v...Nếu quả chăng có thế giới linh hồn của con người thì phải có sự sinh hoạt khác hơn con người, từ thực phẩm ăn uống, đến tình cảm, truyền thông, diễn đạt v.v...
3- Nếu có khả năng tác động vào con người thì có hai góc độ:
a- Gia hộ con người, giúp cho con người tiêu tai, thoát nạn, bệnh tật tiêu trừ.
b- Hủy diệt loài người để cho thế giới linh hồn tăng trưởng.
Trong hai điều kiện trên đây đều phi đạo đức và phi nhân quả cả. Vì thế, nên thế giới linh hồn không được loài người chấp nhận. Nếu con người chấp nhận nó, là tự con người làm khổ mình, khổ người.
Thế giới linh hồn của con người do năng lực tưởng thức của người còn sống tạo ra thì có hai trường hợp:
1- Không tin nó là thế giới linh hồn của người chết, mà biết sử dụng năng lực tưởng thức đó áp dụng vào cuộc sống hiện hữu của con người thì rất có lợi ích như: tìm hài cốt liệt sĩ, báo động trước những tai nạn sẽ xảy ra v.v...
2- Nếu tin nó là thế giới linh hồn của con người, thì đó là một tai họa rất lớn, gây cho chúng ta bệnh tật và tai nạn “tiền mất tật mang”. Nếu tin nó thì đời sống của chúng ta hoàn toàn bị lệ thuộc, mất tự chủ, sống thiếu đạo đức.
Vì thế giới linh hồn không có, người thân chúng ta chết, nghiệp lực đã tiếp tục tái sanh luân hồi còn đâu mà cúng lễ, tiền bạc, đồ dùng hằng ngày (dưới dạng vàng mã) hay tụng kinh cầu siêu v.v...thì đó là nhảm nhí.
Vì thế giới linh hồn không có thì làm gì có linh hồn tiêu vong hay tồn tại mãi mãi.
Ở đây, chúng tôi không suy luận để tranh cãi mà là sự chứng nghiệm của bản thân chúng tôi. Nhập vào trạng thái tưởng thức thì chúng tôi bắt gặp thế giới linh hồn của con người qua năng lực tưởng thức của chúng tạo ra, chứ không phải thế giới linh hồn của con người có sẵn. Vì thế chúng tôi biết rất rõ ràng.
Hầu hết mọi người đều có khả năng nhìn thấy linh hồn, nghe thấy tiếng nói của linh hồn, nhìn thấy hài cốt lắp vùi dưới lớp đất dày mấy mét v.v...không riêng gì cháu Bích Hằng, chỉ vì mọi người chưa được triển khai tưởng thức đúng mức, nên không thấy không nghe được như cháu Bích Hằng mà thôi.
Khả năng đặc biệt, ấy do một nhóm tế bào não của tưởng thức. Nếu các nhà y học và khoa học chịu khó nghiên cứu bộ não của con người thì sẽ khám phá ra rất dễ dàng.
4- Do sự không hiểu biết, giáo sư Trần Phương cho rằng: Những thông tin bí ẩn của anh Nhã, anh Liên, cháu Bích Hằng là những khả năng đặc biệt càng khó khám phá.
Sự thật không phải vậy. Bởi vì thế giới siêu hình không có, tức là không có linh hồn người chết, không có linh hồn thì làm sao có chất liệu quang học, y học, vật lý học mà khám phá. Nếu rời khỏi bộ óc con người mà khám phá thì chẳng bao giờ khám phá ra được thế giới linh hồn.
Cho nên, các nhà y học và khoa học hãy khám phá nơi bộ óc của một nhà ngoại cảm đang hoạt động, thì có thể sẽ khám phá ra từ những từ trường của những tế bào não tưởng thức phóng ra giao cảm với những từ trường còn lưu giữ trong không gian, những hình ảnh, âm thanh, sắc tướng, những hành động và tình cảm của mỗi con người trước khi chết. Đó là y học và khoa học có thể khám phá ra được. Nhưng có những điều mà khoa học và y học không thể khám phá ra được, đó là năng lực của tưởng thức, năng lực đó có thể biến tạo ra hàng vạn vạn triệu triệu linh hồn con người chết và mỗi linh hồn người chết, từ hành động cử chỉ, lời ăn, tiếng nói đến đặc tướng, cung cách không sai khác như người đó lúc còn sống. Nhất là những linh hồn do tưởng thức của nhà ngoại cảm biến hiện ra, lại nói chuyện với nhà ngoại cảm, nhà ngoại cảm hiện giờ như người trung gian nói lại cho chúng ta nghe những sự việc xảy ra mà chỉ có những người thân trong gia đình mới biết. Chúng tôi xin nêu lên một ví dụ để quý vị dễ hiểu hơn.
Trong giấc mộng chúng ta gặp lại ông, bà, cha, mẹ đã chết cách 10 năm hoặc 20 năm, cùng lúc trong đó chúng ta cũng gặp lại những người còn sống như anh, chị, em, cô, bác cùng bà con hàng xóm. Chúng ta đừng hiểu nông cạn là những linh hồn người còn sống cùng với những linh hồn người chết về gặp chúng ta trong giấc mộng. Nếu quả chăng những người còn sống xuất hồn gặp chúng ta thì những người ấy phải nằm mộng như chúng ta. Nhưng sự thật những người ấy không có nằm mộng. Như vậy những người gặp chúng ta trong giấc mộng là gì? Đó là do năng lực tưởng thức của chúng ta biến hiện ra, nó có thể biến hiện một số lượng người và xe cộ đông đúc như chợ Bến Thành, nó có thể biến hiện ra một thủ đô lớn như thủ đô Hà Nội, v.v...
Xét qua giấc mộng thì năng lực tưởng thức của giấc mộng chỉ bằng 1 phần trăm của tưởng thức cháu Hằng khi tìm hài cốt liệt sĩ, và khả năng tưởng thức còn gấp trăm triệu lần khả năng tưởng thức của cháu Hằng hiện giờ, khi nó làm những việc còn siêu việt hơn. Cho nên những nhà Khí công, nhà Nhân điện đều dùng khả năng của tưởng thức.
Giáo sư Trần Phương với hy vọng: “Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, xác nhận được sự tồn tại của linh hồn thì không những có ý nghĩa nhân văn mà còn có ý nghĩa về nhiều mặt khác, kể cả về hình sự (nếu người bị giết mà nói ra thì kẻ giết người tránh sao khỏi tội?), không những có ý nghĩa quốc gia, mà còn có ý nghĩa quốc tế”.
Sự hy vọng của giáo sư Trần Phương không thể thành đạt được, là vì linh hồn không có, chỉ có năng lực tưởng thức tạo ra.
Vì thế, Thiền xuất hồn là một phương tiện tu tập khai triển năng lực của tưởng thức. Khí công là một môn võ học tập luyện để triển khai năng lực tưởng thức, Mật Tông cũng là một pháp môn triển khai sự mầu nhiệm của năng lực tưởng thức, Nhân điện cũng là một phương pháp triển khai năng lực tưởng thức để trị bệnh, Tịnh Độ Tông triển khai năng lực tưởng thức tạo ra thế giới siêu hình Cực Lạc Tây Phương, Thiền Tông là một pháp môn tu tập triển khai năng lực tưởng giải ảo giác, Chân không, Phật tánh v.v...
Cho nên từ trong các tôn giáo cho đến những người có kiến thức khoa học còn nông cạn và chưa thấu suốt nền đạo đức nhân bản nhân quả, nên tin rằng có thế giới linh hồn người chết, đó là một điều mê tín, lạc hậu mà trong thời đại này không thể tha thứ được.
Vì sự thật hiển nhiên, là không có thế giới linh hồn người chết, mà chỉ có sự biến hiện do năng lực tưởng thức của con người còn sống tạo ra. Vì thế Trung Tâm nghiên cứu tiềm năng con người có ra đời cũng chỉ loanh quanh nghiên cứu trong đống sách cũ của những người xưa, toàn là sách tưởng do những nhà tưởng học để lại. Nếu có nghiên cứu xa hơn thì cũng dựa vào những nhà Nhân điện tưởng, Khí công tưởng, Xuất hồn tưởng, Võ công tưởng, Thiền tưởng, Định tưởng, Thần chú tưởng, Ngoại cảm tưởng v.v... Thì cũng không thể nào giải quyết được những gì mà giáo sư mong đợi. Còn nếu đem những nhà ngoại cảm này áp dụng vào hình sự thì chúng tôi e rằng không chính xác, vì các nhà ngoại cảm không phải tự mình điều khiển cái năng lực đó, mà chính cái năng lực tự động của tưởng thức đó điều khiển họ, nên có khi chính xác và có khi không chính xác, có nghĩa là tưởng thức của họ, lúc làm việc, lúc không làm việc. Cũng giống như trường hợp anh Nhã, lúc nó làm việc thì chính xác, lúc nó không làm việc thì anh mò mẫm như người mù dò đường.
Cho nên đem những hình bóng biến hiện linh hồn người chết của tưởng thức vào việc lấy hài cốt liệt sĩ thì tốt nhất, còn về việc hình sự và quốc phòng thì cũng chẳng khác nào đem sự mê tín vào những vấn đề quan trọng của đất nước, thì chúng tôi e rằng không có lợi mà có hại nhiều hơn.
Bởi vì các nhà ngoại cảm không điều khiển được tưởng thức của mình mà bị tưởng thức của mình điều khiển lại mình.
Tóm lại bài này viết, vì lợi ích cho mọi người trên hành tinh này, chúng tôi nói lên sự thật, sự thật 100%. Chúng tôi nói lên không cần quý vị tin, mà chỉ cần đem lại sự lợi ích cho quý vị, để quý vị trở thành những người không mù mờ, không dại dột bị kẻ khác lợi dụng tưởng thức của mình lừa đảo. Tưởng thức như con dao hai lưỡi, nếu quý vị biết dùng nó, thì nó lợi ích cho quý vị, còn quý vị không biết dùng nó, thì nó trở lại làm khổ và làm hại quý vị.
Sự thật là sự thật, không thể nói khác được, chúng tôi nêu lên một sự thật, thời gian và sự tiến bộ của loài người sẽ xác chứng những điều này, những điều chúng tôi đã nói ngày hôm nay “Thế giới linh hồn là do tưởng tri”
Hành trình tìm mộ của Giáo sư Trần Phương và Bích Hằng
(Phóng sự Hoàng Anh Sướng)
Suốt hai ngày trời, dậy từ 4h sáng, mướt mải tìm kiếm, đào bới đến 11h đêm mới về nhà, cái tuổi 72 của GS đã cảm thấy đuối sức. Niềm tin cũng giảm sút. Sáng ngày thứ 3, GS uỷ nhiệm cho các con, cháu, người chị ruột và anh Tân Cương đi tiếp. Ông dặn: Không đào sâu thêm nữa, chỉ soát lại đống cát đen đào xới lên hôm qua, hoạ may nhặt được mẩu xương nào thì đem về. Nếu không thì “thu dọn chiến trường”.
Mọi người thực hiện đúng lời dặn, hì hụi bới tìm gần hết buổi sáng chẳng thấy gì. Nhiều cụ già trong làng đến xem, xúm lại bài bác: “Đã bảo mà! Tìm ở ngoài đê, quanh cái vụng Quạ thì không, lại cứ cắm đầu tìm ở trong đê. Làm gì có xác nào trôi sông mà lại vượt qua được con đê để tận vào trong đồng”. Đúng lúc ấy, anh Thìn, hiệu trưởng trường trung học cơ sở La Tiến đến xem kể: Hồi trước, bố anh làm nghề đơm đó, đánh dậm, có vớt được 3 cái xác: 2 nam, 1 nữ trôi dạt vào vụng Quạ. Ông đã kéo qua đê rồi chôn ở cánh đồng này. Bố anh rất nghèo nhưng bạo gan. Trong làng, nhà ai có việc đào huyệt hay bốc mộ, đều đến nhờ cụ. Cả những cháu bé bị chết đuối, xác trương lên, cụ cũng sẵn sàng vác lên vai đi chôn giúp. Hồi kháng chiến chống Pháp, có nhiều xác chết nổi lên ở vụng Quạ, làng giao hết cho cụ vớt lên chôn cất. Sau này, cụ còn được chính phủ tặng bằng khen vì những thành tích trong kháng chiến chống Pháp. Chỉ tiếc, cụ đã mất 18 năm rồi.
Lại loé lên những tia hy vọng. GS Phương vội điện cho anh Nhã. Từ Sài Gòn, anh bảo: “Biết gia đình tìm được đầy đủ các tín hiệu, tôi mừng lắm tuy cự ly có phần không đúng. Có điều, bây giờ phải lật cái bản đồ mà xem từ âm bản”. GS Phương ngạc nhiên hỏi: “Như vậy có nghĩa là phần mộ cô Khang sẽ nằm ở bên kia sông, tức là trên đất Thái Bình à?”. Anh Nhã gật đầu: “Đúng thế”. Rồi anh dặn: Phải tìm đến một cái vụng xoáy dọc bờ sông. ở đó có một xóm dân cư mới, ra lập nghiệp được khoảng 20 năm. Trong đó có cô Nhường, ông An. Mộ cô Khang nằm trên đất cô Nhường. Trên mộ vẫn đầy đủ những dấu hiệu như đã chỉ”.
Ngày thứ tư tìm mộ: Vô vọng , nghi ngờ “cái trận đồ bát quái”
Hầu hết các thành viên trong gia đình GS Phương, vốn đã không tin vào chuyện tâm linh thần bí, nay thấy sự việc đi vào bế tắc, đều không muốn đi nữa. Bản thân GS thì mệt mỏi rã rời. Chỉ có anh Tân Cương là vẫn vững lòng tin vì chính anh đã nhờ các nhà ngoại cảm mà tìm được mồ mả gia tiên. Ngày hôm sau, anh cùng anh Đạt vượt bến đò La Tiến sang đất Thái Bình. Anh cứ dọc bờ sông Luộc mà đi, những mong tìm được cái vụng xoáy. Đi mãi. Đi cho tới khi xế chiều, anh bắt gặp một cụ già râu tóc bạc phơ. Cụ bảo: “Phía Thái Bình không có cái vụng xoáy nào đâu. Vì con sông đến đoạn này thì quật sang đất Hưng Yên”. Nói rồi cụ chỉ sang vụng bà Khán Mỹ bên kia sông. (Gọi thế vì bà Khán Mỹ đã nhiều năm sinh sống trên vụng đó bằng thuyền đánh cá). Vậy là lại phải qua sông để trở về đất Hưng Yên. Cạnh vụng bà Khán Mỹ, trên đất bãi, có một xóm mới. ở đó, có một chị tên Nhường và một anh tên An. Có mấy ngôi mộ vô thừa nhận. Nhưng tìm kiếm mãi vẫn chẳng thấy tín hiệu nào trùng khớp với bản đồ của anh Nhã.
Không nản, anh Tân Cương đi tiếp một ngày nữa. Từ vụng bà Khán Mỹ, anh đi ngược lên vụng Quạ. Nơi nào có mộ vô thừa nhận là anh đến. Nhưng càng đi tìm lại càng tuyệt vọng. Cuộc tìm kiếm theo đủ mọi hướng đến đây coi như lâm vào ngõ cụt. Cái tính hoài nghi khoa học vốn có trong con người GS Phương giờ “nổi loạn”. Ông nghĩ: Lão Nhã này, hắn đày ải, đánh đố mình đây. Hắn bày ra cả một “trận đồ bát quái”, nào là dấu hiệu, tín hiệu, tên người, tên đất… rồi bảo mình phải đi tìm cho đủ. Lục tìm cả cái đất nước này, chưa chắc đã có nơi nào khớp được. Nghĩ thế nhưng ông lại tự trách mình là vô lý. Đã chấp nhận đi theo thầy Nhã mà tỷ lệ trúng mộ chỉ đạt 60% thì hà cớ gì, trường hợp của mình lại không rơi vào 40% kia? Đã xác định tìm đến con đường thần bí như nguồn hy vọng mỏng manh cuối cùng thì lý gì lại đòi hỏi phải lý giải ngọn nguồn cái trận đồ bát quái ấy?
Theo đuổi đến tận cùng hai nhà ngoại cảm nổi tiếng đã vẽ trúng hàng ngàn ngôi mộ liệt sĩ nhưng đến lượt mình thì không có “duyên”, GS Phương bèn bàn với anh Tân Cương chỉ còn cách là tìm đến những người có khả năng gọi hồn. Chị Tuyết Nga cũng ủng hộ cách làm ấy. Chị đưa cho GS địa chỉ, điện thoại của một nhà ngoại cảm nổi tiếng khác. Điều tra ra thì đó chính là điện thoại của Phan Thị Bích Hằng. Chị nhận lời giúp GS vào chiều ngày 9 tháng 8 năm 1999 tại nhà riêng của ông. Cuộc gọi hồn kéo dài gần hai tiếng đồng hồ với nhiều chi tiết vừa xác thực, vừa ly kỳ, xúc động cùng rất nhiều nước mắt đã hé ra một cách tìm mới về mộ cô Khang và điều đặc biệt nhất là xé toang nỗi nghi ngờ như làn sương bao phủ trong đầu vị GS “vô thần” Trần Phương.
Trò chuyện với… linh hồn
Cuộc trò chuyện với linh hồn cô Khang trong buổi chiều ngày 9 tháng 8 năm 1999 ấy, cho đến tận bây giờ, vẫn là nỗi ám ảnh lớn trong tâm trí của GS Phương. Bởi đó không chỉ là cuộc hội ngộ đầy nước mắt giữa những người thân sau mấy mươi năm sinh ly tử biệt mà đó thực sự là bước ngoặt lớn trong nhận thức của GS về thế giới tâm linh, thế giới của những linh hồn. GS vẫn còn nhớ rất rõ, trong lúc nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đang lúi cúi sắp đặt một cốc nước, một cốc gạo, nến, tiền vàng và bức ảnh của cô Khang lên bàn thì GS cố lục tìm trong trí nhớ những vụ việc rất bí mật mà chỉ GS và cô Khang biết để kiểm tra xem có đúng là linh hồn người em gái đang trò chuyện với ông không? Và điều quan trọng hơn, có thật là linh hồn còn tồn tại sau khi con người đã chết? Cảnh giác, GS còn dặn cả nhà tham dự buổi gọi hồn phải tỉnh táo, không được nói hớ, để lộ thông tin cho “thầy bói nói dựa”.
Thắp hương và đốt nến xong, Bích Hằng thành kính chắp tay trước ngực, khấn mời cô Khang bằng một giọng nhỏ nhẹ rồi quay sang nói với GS Phương: “ở căn phòng này bác không thờ cúng bao giờ, có thể vong linh cô Khang sẽ khó về”. Nghe vậy, GS đâm hoang mang quá. Đúng là ở căn nhà này, GS chưa thờ cúng ai bao giờ, thậm chí, 10 năm nay, ông không ở đây vì đã bàn giao cho con. GS đảo mắt nhìn quanh, thấy bốn bề cửa kính đóng kín mít, máy điều hoà chạy mát lạnh. Mùi hương không lọt ra ngoài thì cô Khang làm sao nhận biết được? Cả tiếng khấn nhẹ như gió thoảng của Bích Hằng nữa? Cô có nghe thấy không? Mà có nghe thấy thì làm sao tìm được địa chỉ này giữa lòng thành phố ồn ào chin chít nhà cửa? Và lách qua kẽ hở nào mà vào?
GS bỗng thấy ngột ngạt, căng thẳng quá. Bên cạnh, Bích Hằng vẫn chăm chắm nhìn tấm ảnh cô Khang. Một phút chờ đợi chậm chạp trôi. Hai phút… Rồi 3 phút. Chợt Bích Hằng reo khẽ: “Cháu chào cô ạ! Cháu là Phan Thị Bích Hằng. Bác Trần Phương có nhờ cháu mời cô về để hỏi xem hài cốt cô hiện ở đâu ạ?”. Nói đoạn, Bích Hằng vội quay sang G.S Phương, hạ giọng nói: “Cháu nhìn thấy một thanh niên đi cùng với cô Khang”. Tim GS Phương đập thình thịch như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Ông cố đoán xem người đàn ông ấy là ai trong khi Bích Hằng vẫn chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng lại “Vâng! à thế ạ. Cô Ngân hay là cái gì ngân ạ?…” Một lúc sau, Bích Hằng quay sang GS Phương, nói: “Cô Khang bảo: Người thanh niên đi cùng em chính là anh Sơn đấy. Anh ấy vẫn thường xuyên đến thăm em”. G.S Phương giật mình. Ôi! Anh Sơn. Người anh ruột hơn G.S Phương 4 tuổi nhưng cũng là người bạn, người đồng chí thân thiết. Anh từng là uỷ viên thường vụ tỉnh Hưng Yên, Sơn Tây, Hà Đông (cũ). Rồi khi thành lập Đại đoàn 320, anh được điều làm Trưởng ban tuyên giáo của đại đoàn. Anh hy sinh trong chiến dịch Hà Nam Ninh tháng 6 năm 1951. G.S Phương muốn reo lên, gọi thật to tên anh. Nhưng sực nhớ Bích Hằng ngồi cạnh, ông cố kìm cảm xúc lại, chờ xem.
Bích Hằng nói tiếp: “Anh không có duyên rồi. Đi tìm em, đối mặt với em rồi mà không đến được với em. Từ hôm anh đến, mấy chị em trong đội du kích Hoàng Ngân cứ bảo: sao lâu quá không thấy anh Phương trở lại. Chỗ em nằm chỉ cách chỗ anh đào 3 sải chân ra phía bờ ao thôi”. G.S Phương vội ngắt lời: “Vậy em nằm trên vườn hay dưới ao?”. Cô Khang bảo (qua Bích Hằng, từ đây gọi là cô Khang - PV): “Đến bờ ao cũng còn 3 bước chân nữa. Phía trên em chừng 2 m là chị Nguyễn Thị Bê, đội viên đội du kích Hoàng Ngân, quê ở ngay làng La Tiến. Cũng cách chừng 2m về phía Đông là một người đàn ông, bị bắt từ Hải Dương về, em không biết tên. Hai người bị giết cùng một ngày với em. Chúng cột tay chúng em lại rồi vất xác xuống sông vào nửa đêm. Dân phòng ta có đi tìm nhưng không thấy. Mãi mấy ngày sau, xác mới nổi lên. Dân vớt được, đưa về đây chôn nên 3 mộ gần sát nhau, gần như nằm trên một đường thẳng. Xa hơn, còn mấy người nữa. Chỗ này cả thảy 7 người cơ”. G.S Phương hỏi: “Chôn em có quan tài không?”. Cô Khang cười buồn: “Mấy người nổi lên trước thì dân còn cho được manh chiếu mà bó. Còn nổi lên sau thì đến manh chiếu cũng không có, nói gì đến quan tài”.
Qua Bích Hằng, cô Khang chỉ dẫn tỉ mỉ chỗ cô nằm với các đặc điểm về cây cỏ xung quanh. G.S Phương nhận ra ngay vì đó là cây nhãn giáp với nhà bà Nhờ, bữa trước ông đã ngồi ở đó để theo dõi việc đào mộ. G.S Phương hỏi: “Em có biết chỗ em nằm thuộc về đất của ai không?”. Cô Khang đáp: “Em cũng không biết nữa. Địch đánh em gãy xương sườn, gãy xương cánh tay và xương đòn tay bên phải, gãy hai chiếc răng nanh ở hàm trên bên phải, dập gò má bên trái. Xương cốt hiện nay vẫn còn nhưng đã mủn vì chôn có quan tài đâu nên khi đào, anh phải cẩn thận, chỉ cần xúc một xẻng đất là nó vỡ ra ngay. Anh chú ý ở tay em vẫn còn cái còng bằng sắt. Địch khoá tay em vào tay người đàn ông bị bắt ở Hải Dương bằng cái còng ấy. Răng hàm dưới đã rụng ra nhưng rất may, hàm trên vẫn còn nguyên vẹn. ở đấy có mấy anh chị, nếu anh có đào nhầm sang mộ người khác thì vẫn có thể nhận ra ngay. Ngày xưa, mọi người hay trêu đùa em là có hàm răng đẹp nhất, trắng nhất, tươi tắn nhất đội du kích. Nhưng bây giờ răng em đã chuyển sang màu đen rồi, đen xỉn ấy do bùn đất lâu năm ngấm vào chứ không phải đen hạt na đâu”. Một niềm xót thương chợt trào dâng khiến nước mắt G.S Phương lưng tròng. Mặc dù chỉ nói một cách kín đáo nhưng ông nhận ra ngay vẻ đẹp mặn mòi rất đặc trưng của em Khang. Ôi! Người con gái đã lìa đời hơn 50 năm mà vẫn thầm tự hào về nhan sắc, về hàm răng trắng như ngà khiến biết bao chàng trai ngưỡng mộ.
Cố kìm nén niềm xúc động, G.S Phương hỏi: “Nếu tìm được hài cốt em thì đưa về quê mình, cạnh mộ bố mẹ hay đưa em về nghĩa trang liệt sĩ của huyện, nơi anh Sơn đang nằm?”. Cô Khang đáp: “Mẹ bảo em: Con là phận gái chết trẻ, không chồng con gì. Về với bố mẹ để sau này cháu chắt còn thăm viếng, hương khói cho con. Nhưng anh Sơn thì bảo: Em là đội trưởng đội nữ du kích Hoàng Ngân. Em cứ về nghĩa trang liệt sĩ cho có anh có em. Tổ quốc ghi công mình cơ mà. Anh Sơn hôm nay cũng về cùng với em đấy”. Suốt nửa tiếng đồng hồ cố nén niềm xúc động, giờ, không kìm được nữa, G.S Phương khóc oà: “Trời ơi! Anh Sơn”. Ông lẳng lặng rút từ trong túi ra một bức ảnh, đưa cho Bích Hằng. Nhìn qua, Bích Hằng bảo: “Đúng đây là ảnh bác Sơn rồi. Nhưng trông bác già và gầy hơn trong ảnh”. G.S Phương gật đầu xác nhận. Bức ảnh chụp từ năm 1948, khi anh Sơn đang công tác ở Sơn Tây nên trông rất điển trai.
Anh Sơn trách G.S Phương: “Chú đi tìm em Khang mà chẳng nói với anh một câu. Lần sau, chú báo trước cho anh, anh sẽ dẫn đường cho chú đến tận nơi. Ai khoanh cho chú chỗ ấy là họ hiểu biết đấy. Cũng may mà khúc sông ấy hơi cong lại, xác em mình mới dạt vào. Nếu không đã trôi tuột mất rồi. Mẹ khóc thương em Khang nhiều lắm. Cứ muốn đưa em về bên mẹ để mẹ ôm ấp. Nhưng anh lại khuyên em Khang về nghĩa trang liệt sĩ vì đấy là vinh dự của em mình, của cả gia đình mình cơ mà. Tổ quốc ghi công mình, đời đời nhân dân thắp hương cho mình chứ đâu chỉ có con cháu trong gia đình. Vả lại, đời anh chị em mình đã vậy chứ đến đời thằng An thì nó còn biết gì.”. G.S Phương lại giật mình. An là con đẻ của ông. 10 năm sau khi anh Sơn hy sinh, An mới ra đời.
“Hôm chú đi tìm mộ em Khang, anh cũng có theo dõi. Chú đào xuyên đến cả lớp đất nguyên thuỷ. Em Khang đâu có nằm sâu thế. Chỉ hơn 1m là đến lớp cát đen rồi. Em mình chỉ nằm ở tầm ấy thôi. Lần này đào tiếp, chú để ý sẽ thấy một thanh củi mục. Thực ra, đấy là cái cán thuổng mà người đào huyệt đã đánh gãy vất lại đó, vô tình như đánh dấu cho mình”. G.S Phương hỏi: “Anh bảo sẽ dẫn đường cho em. Vậy làm cách nào mà em nhận biết được?”. Anh Sơn: “Anh không thể nắm tay chú mà dẫn đi như người trần được. Nhưng anh sẽ sai khiến một con vật nào đó như con ong, con bướm chẳng hạn, dẫn đường cho chú. Làm việc này đối với người âm là khó đấy nhưng anh sẽ cố. Khi thấy con vật, chú gọi nó lại rồi đi theo nó, đến chỗ nó đậu. Hôm nào đi, chú mua ít hoa quả thắp hương mời chị em. Người ta chết cùng nhau, mình chỉ hì hục đào tìm em mình thì người ta cũng tủi. Phía trên mộ em Khang là mộ một chị liên lạc, cấp dưỡng cho đội du kích, người địa phương, nên báo cho gia đình chị ấy biết mà đến tìm. Chú kiếm cho anh mấy bao Cáp-tăng để anh mời anh em. Bây giờ anh cũng chỉ huy cỡ trung đoàn đấy”.
G.S Phương hỏi đôi điều về “đời sống” của anh Sơn và cô Khang. Cô Khang bảo: “Có lần, em về thăm chị Nghĩa mà không vào được, chỉ đứng ngoài nhìn vào”. (Chị Nghĩa là chị cả của gia đình GS Trần Phương - PV). Anh Sơn vội giải thích: “Em Khang bị chết trôi sông. Đã có ai bắc cầu đâu mà hễ nhớ chị nhớ em thì chỗ nào cũng vào được. Bây giờ, cuộc trò chuyện ở đây tạm kết thúc. Cô Khang đi với anh đến nhà Quỳnh chơi”. (Quỳnh là em út của GS Phương - PV). Nói rồi biến mất. Cuộn băng ghi âm 90 phút cũng vừa vặn hết.
Sau này, GS Phương đã nghe đi nghe lại cuộn băng ghi âm nhiều lần. Qua những tên người trong gia đình được nhắc đến một cách ngẫu nhiên, qua cách xưng hô, sự hiểu biết tính cách từng người còn sống, cách xử sự và tâm tư tình cảm của người nói, GS Phương tin chắc rằng: đó là vong linh của anh Sơn và em Khang. Người khác, dù biết rõ gia đình GS đến mấy, cũng không thể sáng tác ra một kịch bản như thế, huống hồ Bích Hằng là người mà hoàn toàn xa lạ, lần đầu tiên được gặp GS. Song điều khiến GS băn khoăn là: “Nếu đúng là khi người ta chết đi, vẫn còn lại một cái gì đó mà người đời thường gọi là linh hồn thì linh hồn là gì? Nó phải tồn tại dưới một dạng vật chất nào đó thì Bích Hằng mới có thể nhìn thấy và nhận diện qua ảnh. Phải phát ra tiếng nói qua một tần số nào đấy thì Bích Hằng mới có thể nghe thấy và nói lại cho tôi nghe. Đối với tôi, nó là vô hình nhưng đối với Bích Hằng, nó là hữu hình. Đối với tôi, nó là câm lặng nhưng đối với Bích Hằng, nó lại phát ra âm thanh với đầy đủ những sắc thái sống động của tình cảm, tư duy, hệt như tiếng nói của người đang sống. Vậy vấn đề đặt ra ở đây là: Nếu linh hồn là một dạng vật chất có hình thù và khả năng phát ra âm thanh thì, theo cách nói của triết học, nó thuộc phạm trù tồn tại mang tính khách quan chứ không thuộc phạm trù ý thức mang tính chủ quan. Nhận biết được nó hay không là tuỳ khả năng của từng người. Đối với tất cả những gì ta chưa có khả năng nhận biết được mà đã vội vất vào cái sọt rác mê tín dị đoan thì khoa học còn việc gì để nghiên cứu? Lâu nay, tôi cứ đinh ninh cho mình là duy vật, hoá ra chính mình lại là duy tâm chủ quan: cái gì mình cho là nó tồn tại thì nó tồn tại. Cái gì ta cho là nó không tồn tại thì nó không tồn tại, nó chỉ là mê tín dị đoan”.
Lần đầu tiên trong đời được tiếp xúc với linh hồn, GS Phương nhận ra như thế. Song những thông tin do linh hồn cung cấp đúng hay sai thì phải chờ vào kết quả cuộc đào bới. Điều kỳ thú là thông tin do Bích Hằng cung cấp về vị trí hài cốt lại trùng khớp với tấm sơ đồ do nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã vẽ trước đây nên GS Phương vô cùng háo hức, coi đây cũng là dịp để kiểm nghiệm lại “cái trận đồ bát quái” của anh. Hy vọng xen lẫn hoài nghi, ông nóng lòng chờ ngày hẹn Bích Hằng về La Tiến. Và cuối cùng, ngày hẹn được ấn định: 17 tháng 8 năm 1999.
Chuẩn bị cho cuộc tìm mộ lần thứ 5
Ngày 13 tháng 8 năm 1999, tức 4 ngày trước khi tiến hành cuộc đào bới, GS Phương đã cử người em ruột là chú Quỳnh cùng anh Tân Cương về La Tiến làm một số công việc chuẩn bị. Trên đường đi, anh Tân Cương gọi điện thoại cho nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã, thông báo toàn bộ sự việc. Biết tin Bích Hằng vào cuộc, anh Nhã rất mừng. Từ Sài Gòn, anh cho một tín hiệu: “Khoảng 10h sáng, sẽ có hai con bướm màu sắc sặc sỡ bay lượn quanh mộ rồi đậu lại. Hãy đánh dấu lấy chỗ đó”.
Đến nhà ông Điển, đúng 10h, anh Tân Cương ra vườn ngồi chờ dưới gốc nhãn. Bỗng hai con bướm đen đốm hoa từ đâu bay tới lượn tung tăng. Anh Tân Cương nín thở dán mắt nhìn. Rồi một con bay đi, một con đậu lại trên cành nhãn. Anh Tân Cương vội chạy lại, chiếu thẳng từ cành nhãn xuống đất, cắm một cây que đánh dấu. Cây que cách chỗ đặt quả trứng bữa trước 2m ra phía bờ ao. Ông Điển đứng bên tường hoa theo dõi cứ tủm tỉm cười. Lúc vào nhà uống nước, ông mới kể: Sau lần đào bới thứ 4 không thấy, ông có mời thầy về cúng. Thầy chỉ mộ cô nằm đúng vào vị trí của cây que đó.
Rời nhà ông Điển, anh Tân Cương đến thẳng Uỷ ban xã để điều tra xem trong danh sách liệt sĩ, có ai là Nguyễn Thị Bê không? Tìm đi tìm lại đống sổ sách, lần hỏi từng cụ già trong làng mà chẳng ai biết cái tên như thế. Điều đó lại khiến GS Phương hoang mang. Vậy là em Khang nói sai? Cả anh Sơn nữa. Anh còn nói cụ thể chị Bê là liên lạc, cấp dưỡng của đội du kích nữ Hoàng Ngân nữa cơ mà? Chẳng nhẽ người nói chuyện với mình bữa trước không phải là em Khang, anh Sơn?
Cuối cùng, ngày 17 tháng 8 năm 1999 cũng đến. Đêm hôm trước, GS Phương không sao chợp mắt được. Lòng dạ cứ bồn chồn. Ruột nóng như có người hơ lửa. Nửa đêm, ông lụi cụi dậy thắp hương, báo cáo với anh Sơn việc tìm em Khang ngày mai. Ông vừa khấn vừa run. Đây có lẽ là lần đầu tiên trong đời, vị GS tóc hoa râm mới tự mình làm cái việc tâm linh huyền bí đó.
Em của anh đây rồi!
Thực hiện đúng lời dặn của anh Sơn, ngày 17 tháng 8 năm 1999, gia đình GS Trần Phương chuẩn bị đầy đủ lễ vật gồm: hương hoa, tiền vàng, nải quả và mấy bao thuốc lá Cáp-tăng, thẳng đường xuống La Tiến. Vừa tới nhà ông Điển, bà chị của GS đã phăm phăm bước ra vườn, bày biện lễ vật lên chiếc mâm rồi đặt lên tường hoa để nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng khấn mời. Cả nhà thành tâm chắp tay cầu nguyện. Khấn khứa một hồi, Bích Hằng cầm bó hương nghi ngút khói đi thẳng ra gốc cây vải, gần cây nhãn sát bờ ao, ngắm ngắm nghía nghía rồi cắm bó hương xuống đất. Lấy đó làm tâm, chị vạch một hình chữ nhật rồi bảo với GS Phương: “Lúc cháu đang chắp tay khấn đã thấy bác Sơn và cô Khang đứng ở gốc cây vải vẫy cháu lại rồi chỉ cho cháu chỗ cắm hương này, cả đầu và chân ngôi mộ nữa”.
Nhìn bó hương Bích Hằng cắm, GS thấy nó cách quả trứng bữa trước chừng 3m ra phía bờ ao và hình chữ nhật nằm ngoài hình tam giác đào lần trước, cạnh của nó là cạnh đáy của hình tam giác nối dài ra phía bờ ao. Trong khi tốp thợ thuê đào tay cuốc, tay xẻng chuẩn bị khai quật thì Bích Hằng khẽ khàng đặt bức ảnh cô Khang dưới gốc cây vải. Mắt nhìn vào tấm ảnh, chị chắp tay trước ngực nói bằng một giọng nhẹ như gió thoảng: “Thưa cô! Chỗ cô nằm, cháu đã vạch theo đúng như cô chỉ. Còn hài cốt thì như hiện trạng cháu nhìn thấy, còn rất ít, khi bốc lên có thể mủn ra. Vậy xin cô cho phép bốc lẫn cả đất mang về. Nếu không được đầy đủ mong cô thông cảm cho”. Cô Khang bảo: “Lần này nhìn thấy cậu Quỳnh là chị phấn khởi rồi. Cậu Quỳnh mà đi thì chắc là được (Quỳnh là em ruột cô Khang, vốn là người tin vào thần phật, lần trước không đi - PV). Còn anh Phương thì thần thánh anh ấy cũng chả sợ, có khi chỉ nhiễu quan trần, còn quan âm thì chẳng ai giúp. Anh Sơn cũng ở đây suốt từ sáng. Anh ấy trách cháu An. Nếu mà lần trước nó kiên trì, bình tĩnh thì đã đưa được em về rồi”. Bỗng Bích Hằng gọi: “Ai là Hậu? Cô Khang muốn gặp chị Hậu”. Bà Hậu, chị của GS Phương, đang ngồi uống nước trong nhà ông Điển nghe vậy vội lập cập chạy ra. Cô Khang nói tiếp: “Chị đã cất công xuống tận đây mà không ra với em, lại cứ ngồi lỳ trong đấy. Hài cốt của em không còn nguyên vẹn. Nhưng chị bốc cho em dù chỉ một nắm đất về quê mình là em cũng mừng rồi. ở đây tuy có nhiều chị em đồng đội nhưng không phải là ruột thịt, cả năm chả ai thắp cho một nén hương, em tủi lắm. Chả lẽ cứ ở đây quấy quả ông An mãi”. Bác Sơn nói chen vào: “Mọi người cứ bốc cho bằng hết. Dù ít dù nhiều cũng là máu thịt của em mình. Không bỏ vừa trong tiểu thì đắp lên mộ cho em”. Anh Tân Cương hỏi: “Cô có biết cháu không ạ?”. Cô Khang cười: “Nếu tôi không biết anh Tân Cương thì hoá ra tôi vô tình quá. Anh lặn lội vất vả với tôi quá nhiều”. Anh Tân Cương lại hỏi: “Cô có biết, ai mai táng cho cô không ạ? Nhiều người không tin là thi thể cô có thể trôi dạt vào đây. Cháu vừa nghe thấy cô nhắc đến ông An là ông An nào? ở đâu ạ?”. Cô Khang: “Nếu có cách gì làm cho cụ Đặng Đình Giám sống lại thì gia đình mình khỏi phải mất công tìm kiếm. Rất tiếc đã gặp cụ dưới âm phủ mất rồi. Lúc giết em xong, giặc ném xác em xuống sông. Mấy ngày sau xác nổi lên, gặp lúc triều cường, dạt vào một khúc quanh. Cụ Giám nhìn thấy, vớt lên, kéo qua một cái rãnh nước rồi dừng lại. Cụ bảo: Mấy vị chết ở đây, nếu đói khát, khi nào nhà ông An lên hương thì vào mà xin lộc”. Rồi cô Khang chỉ cho Bích Hằng ngôi mộ người đàn ông Hải Dương, ngay liền kề phía chân cái hố sắp đào. Bích Hằng bảo: Người đàn ông ấy đứng bên cạnh cô Khang, xưng tên mình và có nói mấy câu nhưng nói nhỏ quá, chị không nghe thấy. Phải đến lúc cô Khang nói, chị mới nghe được. Khi cô Khang chỉ ngôi mộ, chị nhìn thì thấy rõ một bộ hài cốt không đầu.
Tốp thợ bắt tay đào. Đào hết lớp đất “vượt thổ” thì Bích Hằng bảo “dừng lại”. Chị nhảy xuống hố, lấy tay gạt nhẹ từng lớp cát đen. Sâu thêm chừng một gang tay thì vướng vào thanh củi mục. Nạy lên, thả vào nước. Mọi người chợt ồ lên khi nhận ra đó là một khúc tre già, thịt tre đã phân huỷ hết nhưng xơ và đốt tre vẫn còn nguyên. Khúc tre dài hơn một gang tay, to bằng cổ tay người lớn, không thể tra vừa bất cứ một loại xẻng hay cuốc nào, chỉ có thể tra vừa thuổng (Loại thuổng hình lưỡi mai, mặt phẳng, bề ngang nhỏ hơn lưỡi xẻng, có nơi gọi là mai). Mọi người vô cùng kinh ngạc khi thấy lời dặn của bác Sơn trong buổi gọi hồn chiều ngày 9 tháng 8: “Lần này đào tiếp, chú để ý sẽ thấy một thanh củi mục. Thực ra, đấy là cái cán thuổng mà người đào huyệt đã đánh gãy vất lại đó, vô tình như đánh dấu cho mình” đã linh ứng một cách kỳ lạ. Riêng GS Phương thì vui mừng khôn xiết. Vì đây là dấu hiệu đáng tin cậy nhất để chứng minh đó chính là mộ của em gái mình. Cái cán thuổng đã bị vùi sâu dưới lòng đất ngót 50 năm rồi, không ai có thể nguỵ tạo ra nó được. Dấu hiệu đó lại do chính linh hồn anh Sơn mách bảo cách đó 9 hôm, người đời bằng con mắt trần không ai nhìn thấy mà mách bảo được.
Sau khi tìm thấy cán thuổng, Bích Hằng chỉ gạt vài lớp đất mỏng nữa thì bắt gặp hài cốt của cô Khang. Trùm lên sọ là một mảng tóc đen nhánh. Những đốt xương cổ hiện lồ lộ trên nền cát đen. Nhưng khi bàn tay Bích Hằng vừa chạm đến, mớ tóc vủn ra luôn còn những đốt xương thì gãy ra như chiếc bánh quy thấm nước. Qua hình dáng hài cốt, có thể mường tượng ra, khi chôn, người ta đã đặt cô Khang nằm nghiêng, người hơi cong, mặt hướng ra vụng Quạ, đầu hướng về Tây Bắc, chân về hướng Đông Nam. Bích Hằng khẽ khàng bốc tất cả số bùn đất theo hình nằm cong ấy cho vào tấm vải đỏ. Chị hỏi cô Khang: “Thưa cô! Răng cô ở đâu để cháu mang đi đãi ạ?”. Bốc vài nắm đất tìm bới, cuối cùng tìm được 5 chiếc. GS Phương cho lên lòng bàn tay nhìn kỹ thì thấy đúng là những chiếc răng trắng nhưng do ngâm quá lâu trong bùn đất nên đã ngả sang màu xám và đen xỉn. Thấy vậy, mấy người đứng trên bờ nhắc Bích Hằng tìm móng tay. Chị bèn hỏi cô Khang: “Thế còn móng tay cô ở chỗ nào, cô chỉ cho cháu?”. Bỗng thấy Bích Hằng khóc nấc lên. Một lát sau, chỉ nghẹn ngào kể lại với GS Phương: “Cô Khang giơ hai bàn tay toè toẹt máu ra trước mặt cháu, bảo: Chúng nó rót hết móng tay của cô rồi, còn đâu nữa mà tìm hả cháu”. GS Phương chết lặng. Một nỗi niềm chua xót, buốt lòng dâng lên khiến ông đứng lặng, không nói nên lời. Ông chợt nhớ lại. Ngày ấy, sau khi em Khang bị giặc giết, huyện uỷ Phù Cừ có gửi riêng cho ông bản báo cáo, kể rõ em Khang bị địch bắt, tra tấn dã man và bị giết đau đớn như thế nào. (Vì ngày ấy, ông là Phó bí thư tỉnh uỷ Hưng Yên, có nhiều gắn bó với huyện Phù Cừ). Chúng dùng kìm, rút từng chiếc móng tay của em Khang rồi cắm kim vào đó cho mưng mủ, lấy giày đinh giẫm lên mặc cho em Khang giãy giụa, quằn quại. Dã man hơn, chúng còn dí điện vào hai đầu vú, thọc gậy vào âm hộ, treo ngược lên cành cây như bị cát rồi thoả sức đấm, đá Những chuyện buốt lòng ấy, GS Phương đã chôn kín trong lòng, không hé lộ cho bất kỳ ai trong gia đình. Ông sợ mọi người không chịu đựng được nỗi đau ấy. Nay, thấy Bích Hằng nói vậy, ông vô cùng xúc động. Và càng tin chắc chắn rằng, bộ hài cốt kia đích thị là người em gái xinh đẹp và kiên trung của mình.
Bích Hằng vẫn lúi húi dưới hố tìm kiếm và chỉ đạo mấy người giúp việc. Chị tìm mãi chiếc còng sắt vẫn không thấy. Hỏi cô Khang, cô cũng không chỉ được. GS Phương bảo: “Có thể nó đã bị rỉ thành đất qua 50 năm ngâm trong bùn”. Thỉnh thoảng, Bích Hằng lại nhô đầu lên nói chuyện với gia đình GS Trần Phương. Bỗng chị bảo: “Có một cụ cứ ngồi nhìn rồi tủm tỉm cười. Không biết có phải cụ Giám không?”. Rồi chị cất giọng lễ phép hỏi: “Cháu chào cụ ạ! Cụ cho phép cháu được biết quý danh của cụ?”. Lắng nghe hồi lâu, Bích Hằng nói như reo lên: “Cụ An”. Nói đoạn, Bích Hằng tự giới thiệu mình cùng gia đình đi tìm hài cốt cô Khang và đề nghị cụ giúp đỡ. Cụ An bảo (qua Bích Hằng): “Tôi là hàng xóm, nhà tôi ở vệ đê. Lần nào các bác về đây tìm mà tôi chả biết. Tôi còn nhớ như in, đêm hôm ấy, vào lúc gà gáy canh hai, ông Giám qua nhà tôi hỏi mượn cái mai. Tôi hỏi để làm gì? Ông ấy giơ ngón tay lên miệng: “suỵt! Để chôn người chết trôi”. Tôi nhìn kỹ thì thấy một cái xác cụt đầu, biết ngay là cán bộ cách mạng. ở chỗ kia trước là cái rãnh nước. Ông Giám kéo mấy cái xác qua đó, đến đây là chân ruộng mạ. Ông Điển mới ở đây thôi chứ ngày xưa là ruộng mạ, thuộc chủ khác”. Bích Hằng bèn đưa ảnh cô Khang, hỏi: “Cụ có nhận ra ai đây không ạ?”. Cụ An bảo: “Bà này là thân nhân của một ông cán bộ tỉnh uỷ ở đây. Nhưng chôn cất như thế nào thì cả tôi, cả ông Yên, ông Trọng đều không biết gì đâu. Chỉ có mình ông Giám là biết thôi. Để tôi đi tìm ông Giám cho”.
Chờ một lúc lâu, Bích Hằng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ đi cùng cụ An về. Cụ An cười bảo: “Tất cả những chuyện cô cần biết, chỉ có mình ông Giám này là giúp được thôi”. Bích Hằng nhỏ nhẻ giới thiệu và nêu ra đề nghị với cụ Giám: nhận diện người chết qua tấm ảnh và chỉ dùm cái còng sắt nằm ở chỗ nào? Cụ Giám nói: “Đêm ấy trời tối đen như mực nên tôi chỉ nhìn thấy loáng thoáng thôi. Xác ngâm dưới nước lâu ngày đã trương lên rồi, mặt mũi nhìn không rõ. Tóc thì không vấn như trong ảnh thế này đâu mà cắt ngang gáy như cô bây giờ. Nhưng xoã xượi dưới nước. Lần ấy, tôi đem về không phải một người mà những 3 người cơ. Tôi kéo người phụ nữ lên trước nhưng cứ thấy vương vướng. Nhìn kỹ hoá ra tay trái của cô ấy bị xích vào tay người đàn ông. Khi chôn, chẳng nhẽ lại chôn hai người một hố nên tôi phải tuột tay một người đàn ông ra khỏi cái vòng. Tôi chôn người phụ nữ ở đây còn người đàn ông ở chỗ kia. Sức tôi cũng chỉ kéo được có thế. Khi chôn, vì xác bị trói đã cứng lại, không nắn thẳng ra được nên tôi đành đặt nằm nghiêng, mặt hướng ra sông cho mát mẻ. Còn người phụ nữ nữa, tôi chôn ở góc kia, chỗ gốc cây nhãn ấy. Nhưng bây giờ thì đã tụt xuống ao mất rồi. Hình như lúc chết, bà ấy đang mang thai hay sao ấy”. Anh Tân Cương hỏi: “Một số người thắc mắc, không hiểu được tại sao xác chết trôi sông lại có thể dạt vào đây được?”. Cụ Giám gắt: “Cái con mẹ Tiến nó cứ mồm năm miệng mười chứ làm sao mà nó biết bằng tôi được. ở ngoài kia nước cả, không đem vào đây thì vùi ở đâu”. Ngừng một lát, cụ nói tiếp: “Điều này thì tôi chỉ nghe phong thanh thôi. Tụi lính dõng ở đồn nó bảo người phụ nữ bị giết đêm hôm ấy (cô Khang - PV) là bà bé của tay xếp bốt”. Cụ An cãi lại: “Ông thì chỉ được cái ăn no vác nặng, có biết gì đâu. Có lần ông chôn một anh bộ đội, ông lại bảo là thằng lính dõng. Tôi thì không được kéo xác như ông nhưng việc này thì tôi biết rõ. Có một người nữ du kích bị bắt (cô Khang - PV), thằng xếp Bách dụ làm vợ bé không được, nó đã giết đi. ở bốt này có một thằng quan Tư là quan thày người Pháp còn thằng Bách tuy là tay sai nhưng cũng được gọi là xếp. Thằng Bách lấy vợ người La Tiến làng mình, ai mà chẳng biết rõ về nó”.
Trời đã xế chiều. Mọi người hối hả thu dọn. Bác Sơn bảo (qua Bích Hằng): “Còn cái chân của cô, moi sâu vào mà bốc. Được bà chị xuống với em, chẳng giúp được việc gì, chỉ ngồi khóc”. Anh Tân Cương tưởng bác Sơn nói đến cô Nam (chị gái của cô Khang) đa cảm, hay xúc động liền nói chêm vào: “Sáng nay, bà ấy cứ nhất định đòi đi”. Bích Hằng thấy vậy, liền cải chính: “Không phải thế đâu. Bác Sơn nói đến bà chị là bác Nghĩa (đã mất) cơ. Từ nãy, bác ấy cứ ngồi khóc một chỗ. Bác ấy bảo: Nhà có 6 chị em gái, ai nấy đều có phận. Riêng em tôi giỏi giang xinh xắn nhất nhà thì lại chịu cảnh thế này. Không tìm được xác em, lúc tôi chết cũng không nhắm được mắt. Bây giờ tìm được em thì mình đã thành người thiên cổ rồi”. GS Phương nghe thấy bác Nghĩa nhắc đến 6 chị em, vội giơ đốt ngón tay đếm. 6 hay 5 nhỉ? Đúng là 6 thật! Bác Sơn như hiểu ý của anh Tân Cương, nói: “Uí giời! Cho cái cô Nam nhà tôi xuống đây thì chỉ được cái bù lu bù loa chứ giúp được gì. Tính cái con ấy nó vậy”. Cô Khang nói: “Buồn cười quá! Sau lần gặp cô em, về đến nhà, ông anh Phương vội vàng bốc cát lập ngay… 7 bát hương. Mỗi người một bát. Đúng là một cuộc cách mạng. Em Khang cảm động ghi nhận tấm lòng của anh Phương, chị Thuỷ”. (Bà Thuỷ là vợ của GS Phương - PV). GS Phương giật mình. Quái lạ! Việc ông lập đến 7 bát hương, thờ phụng ở nhà, (một bát thờ tổ tiên, một bát thờ cụ nội, một bát thờ ông bà nội, một bát thờ bố mẹ, một bát thờ anh Sơn, một bát thờ cô Khang, một bát thờ người con giai chết trẻ - thế cô Khang mới buồn cười) chỉ có mình ông và vợ biết, có nói với ai đâu. Tại sao Bích Hằng lại nói đúng thế nhỉ?
Cụ An bảo: “Cô Khanh là liệt sĩ, sao không làm lễ truy điệu rồi hãy mang về quê?”. Bác Sơn vội giải thích: “Hôm nay cập rập quá, gia đình chuẩn bị không kịp. Hôm tới đưa về nghĩa trang liệt sĩ của huyện sẽ làm lễ truy điệu sau”. Cô Khang bảo: “Cậu Quỳnh còn giữ những giấy tờ, bằng khen của chị không?”. Chú Quỳnh đáp: “Bằng khen và Huân chương của chị, em vẫn giữ”. Cô Khang: “Hôm này làm lễ truy điệu chị ở nghĩa trang liệt sĩ, cậu nhớ mang theo nhé”. Chao ôi! Người con gái đã hy sinh ngót 50 năm mà vẫn quan tâm đến những vinh dự của mình nơi trần thế - GS Phương ngậm ngùi nghĩ mà lòng thì rưng rưng xúc động.
Nói đoạn, cô Khang quay lại nhìn cụ Giám, cười bảo: “Cụ Giám ạ! Vừa rồi cụ nói oan cho tôi quá. Tôi đã được làm vợ bé ngày nào đâu”. Bích Hằng thông dịch đến đây, mọi người trên bờ cười ồ cả lên. “Nhưng cụ nói đúng đấy. Ngày xưa ai cũng gọi tôi là cô Khang tóc dài. Nhưng khi bị bắt, giặc đã cắt cụt hết. Trong việc chôn cất các liệt sĩ ở đây, cụ là người có công lớn nhất. Chúng tôi vô cùng biết ơn cụ. Nay tôi về Mỹ Hào quê tôi, về với anh Sơn. Nằm lại đây còn một bộ hài cốt, gia đình người ta cũng sẽ đến bốc về. Chỉ còn chị Bê, hài cốt không còn gì. Nhờ bác Điển hương khói cho vong hồn chị. Chị ấy sẽ phù hộ cho bác. Hồi đi hoạt động cách mạng, chị lấy tên là Nguyễn Thị Bê nhưng tên thật của chị là Nguyễn Thị út. (Mấy người trong làng đứng xem chợt ồ lên: Ôi! Bà út. Thế mà con cháu cứ tìm kiếm mãi). Nhờ bác Điển đem mâm lễ phát lộc cho các cháu”.
Mặt trời khuất hẳn sau luỹ tre ven sông thì công việc thu vét hài cốt cũng xong. Mọi người vây quanh gốc cây vải, nơi đặt bàn thờ tạm. Bích Hằng bảo: “Suốt ngày cô Khang và bác Sơn quanh quẩn ở đó. Buổi chiều, bác Nghĩa cũng ngồi ở đó ôm lấy tấm ảnh cô Khang mà khóc. Cụ An và cụ Giám thì ngồi ở phía tường hoa”. Trời nhọ mặt người, gia đình GS Trần Phương mới đưa hài cốt của cô Khang về nhà. Hai ngày sau, lễ truy điệu người nữ du kích anh hùng Trần Thị Khang đã diễn ra trọng thể tại nghĩa trang liệt sĩ của Huyện với sự có mặt của hơn 300 người gồm các Ban, ngành, chính quyền, đoàn thể cùng đông đủ họ hàng nội ngoại. Người xúc động nhất buổi hôm ấy, có lẽ là GS Trần Phương. Sau 24 ngày mò tìm trong bí ẩn, nhiều lúc tưởng chừng như tuyệt vọng, cuối cùng, hài cốt của người em gái thân yêu đã tìm thấy. Đó là một kết thúc có hậu. Đó cũng là hành trình đưa GS đến với thế giới tâm linh đầy huyền hoặc với những khám phá bất ngờ, thú vị và cả những day dứt, trăn trở
GS Trần Phương, nguyên Phó thủ tướng chính phủ, hiệu trưởng trường Đại học kinh doanh và công nghệ Hà Nội: “Hài cốt em tôi đã tìm thấy nhưng cách thức tìm của các nhà ngoại cảm, với tôi, vẫn còn là bí ẩn. Khám phá ra bí ẩn này, như tôi biết, không phải là điều dễ dàng gì. ở đây, tôi chỉ xin đề xuất một số vấn đề để các nhà nghiên cứu xem xét:
1. Tôi có căn cứ để tin rằng: Tôi đã gặp linh hồn em Khang, anh Sơn, thậm chí, cả linh hồn cụ Giám, cụ An, Bích Hằng đã nhận dạng được linh hồn qua tấm ảnh, đã nghe được tiếng nói của linh hồn. Như vậy, linh hồn phải tồn tại dưới một dạng vật chất nào đó thì mới có hình thù và khả năng phát ra tiếng nói như vậy. Đã là một dạng vật chất thì vật lý học, hoá học, sinh học, y học… với những phương tiện quang học và điện tử tinh vi, hẳn sẽ có ngày tìm ra. Vậy các nhà khoa học Việt Nam có thể đóng góp gì theo hướng đó?
2. Tôi nhận thấy linh hồn người chết vẫn thể hiện những tình cảm vui buồn, ước muốn, vẫn kể lại rành rọt, chính xác những việc đã qua, kể cả những sự việc sau khi mình đã chết, vẫn theo dõi những việc mà người sống đang làm. Như vậy, linh hồn đâu phải là vật thể vô tri vô giác mà là những vật thể sống, có tư duy và tình cảm. Điều này, đặt ra một loạt câu hỏi: “Có một thế giới linh hồn ngoài thế giới của chúng ta đang sống không? Nó hoạt động như thế nào, tác động gì đến thế giới của chúng ta? Linh hồn có mất đi hay tồn tại mãi?Người sống dâng cúng đồ lễ, tiền vàng là đúng hay nhảm nhí? Tìm lời giải cho những vấn đề này, nếu chỉ dựa vào suy luận thì sẽ dẫn đến những cuộc tranh cãi bất tận. Vấn đề mấu chốt là phải chứng minh.
3. Hầu hết mọi người đều không nhìn thấy linh hồn, nghe thấy tiếng nói của linh hồn. Ngoại trừ một số hiếm hoi là các nhà ngoại cảm. Vậy khả năng đặc biệt ấy là do cấu tạo sinh lý?
4. Để nghiên cứu lĩnh vực này, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đã lập ra Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người (Bộ môn cận tâm lý). Song quyền hạn, phương tiện nghiên cứu, tài chính hoạt động còn hạn hẹp. Nên chăng, thành lập một viện nghiên cứu có sự hỗ trợ về kinh phí của nhà nước, có sự quyên góp tự nguyện của những người quan tâm? Nếu nghiên cứu thành công không những có ý nghĩa nhân văn mà còn giúp ích nhiều mặt, kể cả về mặt điều tra hình sự (nếu vong hồn người bị giết nói ra thì kẻ giết người tránh sao khỏi tội?).
5. Trong khi chờ đợi kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, cần có những chính sách, chế độ ưu đãi cho các nhà ngoại cảm để họ có thể phát huy cao hơn nữa khả năng đặc biệt vào việc tìm kiếm hài cốt các liệt sĩ, thoả lòng mong ước của hàng chục vạn gia đình. Tránh những lời bổ báng vội vã, tránh vơ đũa cả nắm giữa các nhà ngoại cảm có khả năng thực sự với những kẻ buôn thần bán thánh, lợi dụng mê tín dị đoạn để loè bịp, trục lợi.
TÌM HÀI CỐT LIỆT SĨ MỘT HÀNH TRÌNH ĐẦY BÍ ẨN
Giáo sư Trần Phương
Tôi có một cô em gái, kém tôi hai tuổi (sinh năm 1929) tên là Vũ Thị Kính, nhỏ gọi chạnh là Cánh. Từ hồi kháng chiến chống Pháp được biết đến nay hay gọi bí danh là Trần Thị Khang. Cô tham gia cách mạng năm 16 tuổi, … là một giao liên gan dạ, một các bộ phụ vận có uy tín. Năm 1950 cô là huyện uỷ viên của Đảng bộ Phù Cừ (ĐCSVN), Bí thư phụ nữ cứu quốc huyện. Người tổ chức và chỉ huy đội nữ du kích Hoàng Ngân trong huyện. Tháng 6 năm đó, địch bắt cô từ hầm bí mật đưa về bót La Tiến (bót đóng ngay trên bến đò La Tiến) là một bót khét tiếng tàn ác, một đồn binh án ngữ phía Nam tỉnh Hưng Yên, phía Bắc tỉnh Thái Bình và phía Tây tỉnh Hải Phòng. Địch đã dùng mọi cực hình tra tấn buộc cô phải khai báo và đầu hàng. Nhưng không lay chuyển được cô, chúng giết cô và vứt xác xuống dòng sông Luộc. Sau khi cô hy sinh, đội nữ du kích của huyện đã phát động phong trào “Tuần lễ giết giặc trả thù cho chị Khang”. Chính phủ đã trao tặng cho Cô huân chương kháng chiến hạng nhì.
Huyện uỷ và đội du kích Hoàng Ngân đã đi tìm xác Cô, nhưng không thấy. Đây là nỗi xót xa day dứt của gia đình tôi suốt mấy chục năm qua, mặc dù biết rằng người chết thì nỗi đau xót cũng chấm dứt. Mẹ tôi hồi còn sống thỉnh thoảng lại hỏi tôi: “Có tìm thấy em không?”. Tôi đành tìm lời an ủi mẹ: “bao giờ hết chiến tranh con sẽ tổ chức việc tìm kiếm em, chắc là đựoc mẹ ạ”. Nói thề mà lòng tôi như muốn khóc vì biết mình bất lực trước nỗi đau của mẹ. Cả một dòng sông Luộc mênh mông như thế trôi ra biển cả biết tìm kiếm nơi đâu!
Mười năm lại đây, nghe tin nhiều người tìm được hài cốt người thân bằng cách gọi hồn, bằng ngoại cảm, bằng thấu thị. Tóm lại bằng phương pháp được xem là thần bí, chưa ai lý giải được. Tôi vốn được đào tạo theo tinh thần của khoa học thực nghiệm: Cái gì chứng mình được thì mới tin là có; Cái gì chưa chứng mình được là dứt khoát không tin. Trong đời tôi, chưa bao giờ tin là có tinh thần, thần thánh, ma, quỷ v..v.. Những ngày giỗ bố mẹ, tui không làm cơm cúng, thắp hương, chỉ sửa lại một lọ hoa tươi để tự mình tưởng nhớ. Vậy khi nghe những tin trên tôi bỗng léo ra một niềm hi vọng mong manh: “Biết đâu đấy!”. Nếu bằng phương pháp khoa học thần bí mà tìm được hài cốt em tôi thì có gì phải câu nệ, miễn là có cái gì đó để nhận ra hài cốt đúng là em tôi. Đó chính là chuyện khó nói. Sau 50 năm trôi dạt, hài cốt có còn gì để nhận ra em tôi. Nếu còn, thì may ra được hàm răng không nhuộm đen. Nhưng thời đó, thiếu gì con gái không nhuộm răng đen. Lúc đó, chính tôi cũng phân vân: Nhận một bộ hài cốt mà trong lòng nghi hoặc, mỗi khi tưởng niệm thì phỏng có ích gì! Còn khám nghiệm AND? Đó là chuyện xa vời.
Trong tình cảnh bất lực của mình và khoa học thực nghiệm thì bất lực cứ phương pháp nào giảu toả được nỗi day dứt trong tôi và gia đình tôi đều được xem trọng. Nghĩ thế, tôi bèn tìm cách tiếp cận những nhà ngoại cảm có tiếng tăm. Một số thông tin bảo rằng hài cốt vẫn còn, nhưng chưa có ai chỉ rõ nơi chôn cất.
VẼ MỘ
Chú em tôi – chú Quỳnh – ăn chực nằm chờ ở nhà Nguyễn Văn Liên (Tứ Kỳ – Hải Dương) hơn một tháng, cưói cùng được ông vẽ cho một bản đồ phần mộ. Nhưng mộ lại nằm ở huyện Khoái Châu là nơi cách La Tiến mấy chục cây số về thượng lưu. Suy luận rằng chú em tôi chưa hẳn đã đủ thân thiết với cô chị, vì vậy mà thông tin không được chính xác, bản thân tôi tìm đến ông Liên, nhưng chờ mãi, ông vẫn chưa nhận được thông tin gì để mách bảo cho tôi.
Giữa lúc ấy thì tôi gặp chị Tuyết Nga là người đã nhờ ông Liên mà tìm được bố mẹ bị giặc sát hại từ những năm 1950 đã khuyên tôi nên tìm bạn chị là anh Nguyễn Văn Nhã, một người nổi tiếng ở miền Nam vì đã tìm được nhiều mộ liệt sĩ. Chị gọi điện cho anh Nhã và ngay chiều hôm đó anh bay ra Hà Nội.
Sớm ngày hôm sau 25/7/1999, tôi gặp anh Nhã. Anh chưa đến 50 tuổi, một kỹ sư hoá. Đảng viên nhiều năm làm công tác đoàn thanh niên TP HCM, theo anh nói thì anh mới có khả năng đặc biệt từ trước Tết không được ai huấn luyện cả. Anh đã vẽ hơn 600 ngôi mộ, tỉ lệ trúng đạt 60%. Có trường hợp trúng đến mức chính anh cũng phải kinh ngạc, “thông tin” đến với anh như thế nào thì anh vẽ thế ấy. Còn thông tin từ đâu đến, trúng hay trật, đồi với chính anh cũng là điều bí ẩn.
Trong căn phòng làm việc của tôi, không có hương khói gì cả, anh hỏi tôi và cô vợ tôi mấy thông tin đơn giản: Cô em tên gì, sinh năm nào, hy sinh ngày tháng nào, ở đâu, người đi tìm tên gì. Anh hỏi bến đò La Tiến thuộc xã nào, huyện Phù Cư thuộc tỉnh nào, bến đò ấy có cây cầu không (chứng tỏ anh chẳng biết gì về vùng đất đó cả), rồi anh lấy một tờ giấy to và bút màu ra vẽ bản đồ, vẽ một cách thư thả không gạch xoá gì cả. Mọi việc diễn ra trong vòng mười phút.
Nhìn vào bản đồ tôi thấy anh vẽ con sông uốn lựơn, đường to, đường nhỏ giao nhau, rồi ghi: từ bến đò La Tiền đi về hướng Đông Nam thấy một trường học, đi khoảng 1,6km thì thấy một ngã tư, phía trái ngã tư thấy một quán tạp hoá có cửa màu xanh dương, lúc đó rẽ tay phải thấy một cái đình, đi vài 1km thì thấy một con đường nhỏ, đi chừng 60m rẽ phải đi chừng 45m thì đến phần mộ. Mộ nằm trên đất cô Nhường 47 tuổi, đối diện với về phía Tây Nam là quán ông An 56 tuổi. Mộ chôn đầu về phía tây, cách một gốc cây độ 4 tấc một cục gạch vỡ màu nâu đỏ và năm cây cỏ dại có hoa màu tím nhạt.
Rồi anh hỏi tôi bao giờ thì đi tìm mộ? Tôi trả lời: Để chuẩn bị thì phải hai tuần nữa. Anh nói chậm quá, nên đi sớm. Tôi quyết định 3 ngày nữa thì đi,a nh nói tôi phải cho anh một tín hiệu để tìm. Hai con bươm bướm nhé? Tôi nói hai con bươm bướm thì sợ khó tìm. Anh ngẫm nghĩ một lát rồi nói: Vậy tôi cho anh một bé gái nhé? Rồi anh ghi vào tấm bản đồ: 13h30 ngày 28/7 sẽ có một bé gái chừng mười một tuổi, mặc áo hoa xanh đến gần mộ. (Tôi không hiểu bằng cách nào mà anh điều cho tôi môt cô bé gái đên vào giờ đó, ngày đó!) Rồi anh dặn: nếu đến sớm thì năm cây cỏ dại có mười bông hoa tím, muộn thì có năm bông.
Ngạc nhiên quá tôi hỏi anh: Anh không biết gì về vùng đất đó vậy dựa vào cái gì mà anh vẽ ra tấm bản đồ chi tiết vậy?
Anh nói: Tôi thấy trong đầu tôi hiện ra như thế nào thì tôi vẽ như thế ấy, tôi cũng chẳng hiểu nữa.
Tôi lại hỏi: Còn những tên người kia, tại sao là đất cô Nhường, quán ông An?
Anh nói tôi thấy như trong tai tôi có âm thanh ấy, có thể là Nhượng, Nhường, Nhương gì đó, cũng có thể 47 hay 87 tuổi. Còn An cũng có thể là Am. Anh còn dặn thêm: có thể xem cái bản đồ này là từ âm bản. Lời dặn này lúc đó tôi không để ý lắm.
Vẽ bản đồ và trao đổi trong vòng nửa tiếng, anh Nhã chia tay tôi để vội vã bay về TP HCM, nơi anh đang phải điều hành một công ty tư vấn.
Về phần tôi tin haykhông vẫn phải làm theo chỉ dẫn của anh, vì còn cách nào khác đâu?
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpSống chậm giữa đời nhanh
02/07/2010Lê Thiếu NhơnTương lai trong lòng quá khứ
06/02/2009Nguyễn QuânKế thừa tinh thần yêu nước truyền thống của dân tộc ta trong bối cảnh toàn cầu hóa
02/02/2010Mai Thị Quý