Bên tình bên lý, bên nào nặng hơn?
Thử đặt bạn vào tình huống sau. Bạn được một anh bạn chở đi chơi; xe tông một người đi bộ. Lúc đó, xe chạy 30 dặm/giờ, trong khi giới hạn tốc độ chỉ là 15 dặm/giờ. Anh bạn bị bắt, còn bạn phải ra tòa với tư cách là nhân chứng duy nhất. Để anh bạn khỏi lãnh án nặng, luật sư yêu cầu bạn khai là xe không vượt tốc độ. Nhưng trước tòa bạn phải thề khai sự thật.
Bạn sẽ nói gì?
Tình huống này được hai nhà xã hội học Mỹ Samuel Stouffer và J. Toby đặt ra năm 1951 để nêu một thế khó xử thường gặp: tuân thủ luật lệ chung hay tôn trọng quan hệ tình cảm riêng.
Hai nhà nghiên cứu văn hóa nổi tiếng Fons Trompenaars (Hà Lan) và Charles Hampden-Tumer (Anh) đã đặt câu hỏi này (và những tình huống tương tự) với khoảng 55.000 nhà quản lý ở gần 40 nước.
Gần 100% người Bắc Âu (Thụy Sỹ, Thụy Điển, Na Uy) và Bắc Mỹ (Mỹ, Canada) chọn khai sự thật, dù điều đó khiến anh bạn đi tù. Họ là những người trọng các giá trị chung (universalist) Họ tuân thủ luật lệ và tin rằng "quân pháp bất vị thân", dù có thể hại cho mình. Đó là những nơi có số... luật sư đông nhất.
Ở phía ngược lại là những nền văn hóa trọng các giá trị riêng (particularist) như Trung Quốc, Nga,
Chung-riêng (trọng lý-trọng tình) là một trong sáu cặp phạm trù văn hóa được Trompenaars và Hampden-Turner đúc kết sau nhiều năm nghiên cứu, có nhiều ứng dụng thú vị đối với kinh doanh quốc tế. Mỗi nền văn hoá tự cho rằng cách hành xử của mình là đạo đức nhất, còn phía kia là đồi bại. Người Mỹ có thể khinh khỉnh: "Không tin họ được. Họ không nói thật"; còn người Hàn Quốc có thể dè bỉu: "Không tin họ được. Đến bạn bè mà họ cũng không giúp". Đối với ai làm việc trong môi trường đa văn hóa, vấn đề không phải là tranh cãi ai đúng ai sai, mà ra làm sao để hòa giải những bất đồng đó để cùng tạo ra giá trị (Hình Hoà giải Riêng-Chung). Trompenaars minh họa cặp phạm trù chung-riêng này bằng nhiều ví dụ trong kinh doanh.
Hợp đồng. Ở xã hội trọng lý, hợp đồng đương nhiên là tối thượng. Nhưng đối với những người trọng tình, hợp đồng chỉ là thỏa thuận sơ khởi, bởi vậy họ chỉ muốn ký chung chung và thường phản đối những điều khoản ràng buộc chi li. Đây không nhất thiết là mánh lới gian xảo, mà thể hiện ý muốn tạo điều kiện cho đôi bên có thể điều tiết thích nghi với thực tế. Quan hệ hữu hảo với khách hàng và nhân viên bổ sung tính linh hoạt và tính bền vững mà hợp đồng thường thiếu.
Các doanh nhân châu Á, Ả Rập, và Mỹ La tinh thường muốn hợp đồng được hiệu chỉnh khi hoàn cảnh thay đổi. Trong một hợp đồng mười năm giữa một hãng bạc đạn
Liên minh hàng không KLM-AlItalia từng có nguy cơ đổ vỡ vì quan niệm khác nhau về hợp đồng. Số tiền ứng trước khoảng 100 triệu đôla để phát triển sân bay Malpensa là một trong những điều khoản chính. Khi công tác đầu tư không thực hiện đúng tiến độ, người Hà Lan đòi bàn lại các khoản ứng trước, vì theo họ đã là hợp đồng thì phải tôn trọng tuyệt đối. Trong khi đó người ý có đủ lý do để giải thích; nào là thực tế có nhiều bất trắc nào là có thể có một số ngoại lệ. Họ nói: "Việc gì rối lên? Trước sau gì chúng tôi cũng làm mà."
Thời gian làm quen.Khi sang làm ăn ở các nước trọng tình, các doanh nhân từ xã hội trọng lý (như Bắc Mỹ, Anh, Hà Lan, Đức hay
Quản lý tri thức. Khi General Motors (Mỹ) và Isuzu (Nhật) liên doanh sản xuất xe tải, xét về tầm cỡ, GM có thể dễ dàng nuốt chửng Isuzu, nhưng không làm thế vì thấy được khả năng cùng phát triển. Hai bên cùng nhau xác định và hòa giải những khác biệt văn hóa trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. GM mạnh về tận dụng lợi thế kinh tế nhờ quy mô thông qua việc chuẩn hóa sản xuất; còn Isuzu có tài ứng dụng cho những tình huống độc nhất. Người Mỹ có thiên hướng hệ thống hóa tri thức thành những cẩm nang dày cộp, còn người Nhật có khả năng nắm bắt tri thức ngầm chứa trong các mối quan hệ giữa những người đã làm việc với nhau hàng chục năm. Tư vấn cho họ, Trompenaars đề xuất một cách hòa giải đơn giản: để người Nhật soạn cẩm nang hướng dẫn cho dự án này; chúng súc tích hơn và có chất lượng hơn.
Phép vua và lệ làng. Những công ty đa quốc gia hoạt động ở nhiều nước cần hài hòa hai phạm trù chung-riêng để đảm bảo vận hành thông suốt từ cấp tổng hành dinh xuống đến từng chi nhánh quốc gia. Áp dụng chung một hệ thống chuẩn hóa cho tất cả các văn phòng khắp thế giới sẽ làm cô lập và gây khó chịu cho những người trọng tình; còn thả lỏng để mỗi nơi làm theo cách riêng của mình thì có thể dẫn đến tình trạng hỗn loạn. Ngay cả giữa các phòng ban cũng có sự khác biệt. Các phòng như nhân sự, tài chính, tiếp thị thường nhất nhất tuân thủ các quy tắc chung, còn những phòng như kinh doanh có những tập quán cụ thể cho mỗi địa phương. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy các chi nhánh hải ngoại của các công ty đa quốc gia thường có kiểu đối phó với những nguyên tắc chung. Khi tổng hành dinh theo dõi sát sao, họ làm theo đúng bài bản. Khi tổng hành dinh xao lãng vì bận việc khác, họ quay lại với kiểu làm riêng của mình và ca bài "cuộc đời vẫn đẹp sao".
1 . Fons Trompenaars, Did the Pedestrian Die? 2003.
2. Charles Hampden-turner & Fons Trompenaars, Rtding The Waves of Culture. Understanding Diversity in Global Business, 1997.
3. Fons Trompenaars & Peter Woolliams, When Two Worlds Collde, 2000.
Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, 15.01.2004
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn TrọngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất Thịnh"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiBệnh sùng bái thần tượng và sự rối loạn của giáo dục
05/04/2019Có khi bi quan khi nhìn vào thực trạng văn hóa
12/04/2016Hồng Thanh Quang (thực hiện)7 nguyên tắc sống bất di bất dịch của Đại bàng
24/12/2015Bài học cuộc sống từ "Vua hề Sác-lô"
07/12/2015