Nguyễn Khải (1930 - 2008)

05:20 CH @ Thứ Bảy - 26 Tháng Chín, 2009



Nguyễn Khải (3/12/1930 - 15/1/2008)

Nhà văn được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.

- Nguyễn Khải tên thật là Nguyễn Mạnh Khải, sinh năm 1930 tại Hà Nội. Quê nội ở thành phố Nam Định nhưng tuổi nhỏ sống ở nhiều nơi. Đang học trung học thì gặp Cách mạng tháng Tám.
- Trong Kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Khải gia nhập tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá rồi làm báo. Bắt đầu viết văn từ những năm 1950, được chú ý từ tiểu thuyết Xung đột (phần I năm 1959, phần II năm 1962).
- Sau năm 1975, ông chuyển vào sinh sống tại tp. Hồ Chí Minh.
- Năm 1988, ông rời quân đội với quân hàm đại tá để về làm việc tại Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyễn Khải từng là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa 2, 3 và là Phó tổng thư ký khóa 3. Ông là Đại biểu Quốc hội khóa VII.
- Các sáng tác của ông khá phong phú: về nông thôn trong quá trình xây dựng cuộc sống mới, về bộ đội trong những năm chiến tranh chống Mỹ, về những vấn đề xã hội–chính trị có tính thời sự và đời sống tư tưởng, tinh thần của con người hiện nay trước những biến động phức tạp của đời sống.
Sáng tác của Nguyễn Khải thể hiện sự nhạy bén và cách khám phá riêng của nhà văn với các vấn đề xã hội, năng lực phân tích tâm lý sắc sảo, sức mạnh của lý trí tỉnh táo.
- Năm 1982, ông nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm.
- Năm 2000, nhà văn được phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về Văn học nghệ thuật.
- Ông mất năm 2008 tại thành phố Hồ Chí Minh do bệnh tim.


Tác phẩm đã xuất bản

Ông sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký sự, kịch. Trong đó, Nguyễn Khải để dấu ấn qua nhiều tác phẩm như:

Xây dựng (truyện vừa, 1952)
Xung đột (ghi chép nhiều tập, truyện, 1959-1962)
Câu chuyện giữa một người đọc và một người chép (Nghiên cứu lý luận, 1959)
Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960)
Một chủ đề chung quán xuyến tất cả sáng tác của tôi: Làm thế nào cho con người sống được hạnh phúc hơn. (trả lời phỏng vấn, báo Văn học, 1962)
Sức mạnh của ngòi bút là được chiến đấu cho lẽ phải, cho chân lý (trao đổi, báo Văn học, 1962)
Hãy đi xa hơn nữa (tập truyện vừa, NXB Văn học, 1963)
Đường vào nghệ thuật (NXB Thanh niên, 1963)
Gia đình lớn (Truyện vừa, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 1964)
Người trở về(Tập truyện vừa, NXB Văn học, 1964)
Sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật thật cao đẹp xứng đáng với nhân dân anh hùng (Báo nhân dân, 1968)
Người 40 tuổi (Tự sự lúc bước sang một năm mới, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1970)
Ra đảo (tiểu thuyết, NXB Quân đội nhân dân, 1970)
Đường trong mây (tiểu thuyết, NXB Văn học, 1970)
Hãy đi xa hơn nữa (tập truyện vừa, NXB Văn học, 1971)
Chủ tịch huyện (truyện, NXB Văn học 1972)
Chiến sĩ (tiểu thuyết, NXB Quân đội nhân dân, 1973)
Đối mặt (kịch, Tạp chí Tác phẩm mới, 1974)
Tháng ba ở Tây Nguyên (ký sự, NXB Quân đội nhân dân, 1976)
Cách mạng (kịch 4 màn, NXB Quân đội nhân dân, 1978)
Cha và Con và... (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1979)
Hành trình đến tự do (Kịch, NXB Văn nghệ, 1980)
Khoảnh khắc đang sống. (Kịch bản điện ảnh, Báo Văn nghệ, 1980)
Bạn bè trên cao nguyên (truyện, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1981)
Gặp gỡ cuối năm (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1982)
Khoảnh khắc đang sống (kịch bản phim, truyện ngắn, NXB Văn nghệ, 1982)
Văn xuôi một chặng đường 1963-1983. Báo cáo bổ sung trình bày trong Đại hội lần thứ III Hội Nhà văn Việt Nam (Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 1984)
Thời gian của người (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1982)
Điều tra về một cái chết (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1986)
Cái thời lãng mạn (truyện vừa, Báo Văn nghệ, 1987)
Vòng sóng đến vô cùng (truyện, NXB Trẻ, 1987)
Nghề văn, nhà văn và Hội nhà văn (ý kiến, Báo Văn nghệ, 1988)
Một giọt nắng nhạt (sách măng non, NXB Trẻ, 1988)
Những suy nghĩ về đổi mới văn nghệ (Báo Văn nghệ, 1989)
Đến một nơi rất xa để được hiểu lại mình (Tạp chí Tác phẩm văn học, 1989)
Một cõi nhân gian bé tý(tiểu thuyết, NXB Văn nghệ, 1989)
Một người Hà Nội (tập truyện, NXB Hà Nội, 1990)
Danh nhân của làng (truyện ngắn, 1991)
Cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức (truyện ngắn, báo Văn nghệ, 1991)
Chuyện tình của mỗi người (truyện ngắn, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1992)
Nghề văn cũng lắm công phu (Báo Văn nghệ, 1992-1993)
Sư già chùa Thắm và ông đại tá về hưu (tập truyện, NXB Hội nhà văn, 1993)
Một thời gió bụi (tập truyện ngắn, NXB Lao động, 1993)
Tôi nhiệt liệt ủng hộ các cây bút trẻ có tài. Thư ngỏ gửi nhà văn (báo Văn nghệ trẻ, 1995)
Nhìn lại những trang viết của mình. Tham luận tại Hội thảo Việt Nam nửa thế kỷ văn học (1995)
Hà Nội trong mắt tôi (tập truyện ngắn, NXB Hà Nội, 1995)
Nguyễn Khải với nghề văn (Báo Văn nghệ trẻ, 1996)
Bắt đầu từ một câu nói (9-1996)
Cuộc tìm kiếm mãi mãi (3-1996)
Tâm sự văn chương của nhà văn Nguyễn Khải (Báo Văn nghệ trẻ, 1997)
Truyện ngắn và tạp văn (NXB Trẻ, 1997)
Chị Xuân, chị Đào (Bút ký, Phụ san Văn nghệ Quân đội, 1998)
Người Ngu (Báo Văn nghệ trẻ, Xuân Mậu Dần, 1998)
Những tháng năm yên tĩnh (Bút ký, Báo Văn nghệ, Tết Mậu Dần, 1998)
Ước gì tôi được trẻ lại, Chuyện cà kề, Một lá phiếu và một lá phiếu (Lão Bộc) (Phụ san Văn nghệ Quân đội, 1998)
Hạnh phúc đến muộn (Kịch nói, Tạp chí Tác phẩm mới, 1998)
Một bài tiểu luận làm tôi thay đổi cả quan niệm về tiểu thuyết (trả lời phỏng vấn, Báo Tuổi trẻ chủ nhật, 1998)
Chút phấn của đời. (kịch nói 2 màn, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1999)
Hãy biết cách cống hiến bạn đọc cái phần mạnh nhất của mình. Bài phát biểu tại lễ trao giải thưởng văn học 1998 của Hội nhà văn
Một cuộc bàn giao chậm lại đúng nửa thế kỷ (Báo Văn nghệ Tết Kỷ Mão, 1999)
Đến một nơi rất xa để được hiểu lại mình. (bút ký, Báo Văn nghệ, 1999)
Đọc "Tiểu thuyết thứ bảy" (Báo Văn nghệ, 1999)
Chế Lan Viên - một nghệ sĩ, một chiến sĩ (Báo Văn hóa thể thao, 1999)
Tìm đất sống (bút ký, Báo Văn nghệ, 1999)
Truyện nghề (NXB Hội Nhà văn, 1999)
Tết của một chiến sĩ tình báo (Báo Văn nghệ Tết Canh thìn, 2000)
"Tiểu thuyết là tinh hoa của hiện thực" (Báo Văn nghệ Tết Canh thìn, 2000)
Mạch nước trong vẫn lặng lẽ chảy (Báo Sài Gòn tiếp thị, 2000)
Đôi điều biết thêm về Nguyễn Văn Vĩnh (Phụ san Văn nghệ quân đội, 2000)
Danh dự (truyện, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 2000)
Người Việt nam những chục năm đầu thế kỷ XX (Báo Văn nghệ, 2000)
Tây Nguyên nửa đầu thế kỷ XX (Báo Văn nghệ, 2000)
Tôi là người may mắn (trả lời phỏng vấn, Báo Lao động, 2000)
Giận ông giời (truyện ngắn, Báo Văn nghệ, 2001)
Má hồng (truyện ngắn, Báo Văn nghệ, 2001)
Sống ở đời (tập truyện, NXB Trẻ, 2002)
Thượng đế thì cười (tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn, 2003), mang giọng văn hồi ký về cuộc đời viết lách của ông.


Cuối đời, ông dành thời gian đúc kết những nghĩ suy, đau đáu trong tùy bút:
Nghĩ muộn (Tùy bút, 2000)
Đi tìm cái tôi đã mất (Tùy bút, 2006)



Quan điểm sáng tác

Một nhà văn phải có một hệ tư tưởng triết học riêng, có một thế giới quan riêng, từ đó anh ta sẽ xây dựng cái thế giới nghệ thuật của mình với một hệ thống nhân vật, tư tưởng, ngôn ngữ và cách kết cấu của riêng mình. Họ sẽ đi đến cùng trong cái thế giới nghệ thuật của mình, trong niềm tin không thay đổi của mình. Còn họ đúng hay sai, cái sự nghiệp văn chương của họ là tích cực hay tiêu cực là tùy thuộc sự đánh giá của bạn đọc ở mỗi thời...

... Tôi chả có cái gì là riêng cả, tôi đâu có quyền tự do lựa chọn. Cái tôi đang có chỉ là một phần rất nhỏ của cái mọi người đều có. Mọi người đều bằng lòng với những cái đang có, đều cảm thấy đầy đủ với những cái đang có, chả lẽ tôi lại nói là tôi không bằng lòng. Vậy tôi muốn cái gì, muốn đi tới đâu, muốn xây dựng hay muốn phá hoại? Chính tôi cũng không thể tự trả lời được là tôi đang muốn cái gì - cũng do tuổi già nên tôi nhìn mọi sự không còn được sáng rõ như những năm còn trẻ. Nên tự nhủ, cái gì đã nhìn chưa rõ thì chớ có đặt bút viết. Sự cẩn thận ấy với tôi đã là một thói quen. Tôi là người của một thời mà. Thời thế cho tôi cũng nhiều mà lấy đi cũng không ít, có được có mất cũng là lẽ công bằng.

Văn chương do con người làm ra để trao tặng cho con người một cách tự do nhất, ít bị ép buộc nhất. Chỉ có văn chương mới tôn trọng mọi giá trị của cá nhân, tôn trọng mọi lựa chọn của cá nhân kể cả những thành kiến phi lý của họ. Họ có quyền yêu mình hoặc ghét mình , tôn vinh mình hoặc nguyền rủa mình, chả sao cả. Người viết cứ viết người ghét cứ ghét kể cả cái quyền ném sách vào lửa. Cái mục đích “tải đạo”, “giáo dục” của văn chương không bao giờ lộ liễu, lộ liễu là văn chương tồi. Vả lại chính người viết cũng không có ý định ấy, họ viết bằng tâm sự thành thật của mình, những trải nghiệm đau đớn của mình, họ viết cho họ trước rồi cho độc giả sau, có khi họ cũng chả nghĩ đến những người sẽ đọc họ, viết mà chơi thôi, viết để giải sầu rồi tự mình ngậm ngùi với mình, ứa lệ với riêng mình. Chả trách ai cả, chả giận ai cả, cũng chả lên án một ai. Vì không có vật cản nào nảy sinh trong ta khi đọc nên chữ nghĩa của tác phẩm cứ mặc nhiên trôi vào tận những kẽ ngách trong cái tâm sự u uẩn, những khát vọng thầm kín của riêng ta, đọng lại trong ấy, rồi cứ thẩm thấu dần dần vào cái thế giới tinh thần của ta một cách vô thức, giúp ta nhận ra một vùng sáng mới lạ nào đó, gột rửa một vài thành kiến, thay đổi một vài quan niệm, và ta vẫn nghĩ một cách khoan khoái là chính tự ta đã chủ động thay đổi, tuyệt nhiên không theo lời chỉ bảo của một ai cả, của một học thuyết nào cả, hoặc nhập vào một cách bất chợt một phong trào thời thượng nào cả. Bất cứ cái gì xa lạ với bản tính của mình, với thói quen của mình, nói một câu, với những gì làm nên lai lịch của mình, chả sớm thì muộn đều bị đào thải để mình lại được trở về với cái nguyên gốc.

... phải bỏ hẳn những tư tưởng triết học và thế giới quan phù hợp với cách nghĩ, cách nhìn, cách đánh giá của riêng mình, đã được chứng minh qua những trải nghiệp của bản thân để nhập vào dòng tư tưởng chính thống, cái triết học chính thống, cách nhìn nhận và đánh giá chính thống, xét cho cùng chả liên quan bao nhiêu tới cái tâm sự đang ấp ủ, tới những điều cần phải viết, và trên hết, máu thịt hơn hết là những phát hiện độc đáo của riêng mình trong lịch sử, trong văn hoá, trong nhân sinh. Mất những cái đó thì còn sống tiếp làm gì, còn viết tiếp làm gì nên một số đã phải đổi nghề, bỏ nghề sáng tạo sang nghề cạo giấy, làm một anh công chức hiền lành, mẫu mực, vừa có quyền vừa có lợi. Cái danh cái lợi cũng có sức quyến rũ người ta lắm, qua nhiều năm tháng nó đã trở thành ý nghĩa quan trọng nhất để sống, sống với vợ con, với bạn bè, với xóm làng, với xã hội.

Nguyễn Khải là một cây bút trí tuệ, luôn luôn suy nghĩ sâu lắng về những vấn đề mà cuộc sống đặt ra và cố gắng tìm một lời giải đáp thuyết phục theo cách riêng của mình. Cho nên trong các tác phẩm của nhà văn, thông qua sự kiện xã hội, chính trị có tính thời sự nóng hổi, bao giờ cũng nổi lên những vấn đề khái quát có ý nghĩa triết học và đạo đức nhân sinh... (Phan Cự Đệ)

Ông đã là một trong những nhà văn dẫn đầu của thời đại. Sáng tác của ông luôn luôn đánh dấu những biến chuyển của xã hội. Với cuộc Cách mạng này, những năm tháng đấu tranh gian khổ này, tác phẩm của ông là một bằng chứng một tài liệu tham khảo thực sự. Và muốn hiểu con người thời đại, với tất cả những cái hay cái dở của họ, nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ, đời sống tinh thần của họ, phải đọc Nguyễn Khải...
(Nguyễn Khải trong sự vận động của văn học cách mạng từ sau 1945, Vương Trí Nhàn)

Soi rọi thật sâu vào những tốt xấu, hay dở, mạnh yếu của các thế hệ trẻ và già trong cuộc sống hôm nay, Nguyễn Khải dường như muốn đề nghị một thái độ cảm thông và hiểu biết lẫn nhau giữa các thế hệ để đi tìm một tiếng nói chung. Dẫu biết rằng, giờ đây "mục đích riêng" giữa các thế hệ đã không còn trùng hợp, nhưng họ vẫn còn gặp gỡ nhau trong một "mục tiêu chung -" - kéo một nước Việt nam từ trong đáy sâu của thời gian lên với ánh sáng của hôm nay, để được sống và nghĩ cùng ngày, cùng giờ với một nhân loại đang háo hức lao tới những mục tiêu của cuối thế kỷ. "Gừng già đâu đã phải thứ bỏ", vả lại "khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già" đó là quy luật của muôn đời. Hãy viết tận dụng thế mạnh của mỗi lứa tuổi để làm giàu có thêm đời sống tinh thần của mỗi con người trong cuộc sống hôm nay. (Thế giới nhân vật Nguyễn Khải trong cảm hứng nghiên cứu phân tích, Đào Thủy Nguyên)

Tình cảm nhân đạo thể hiện trong chiều sâu của tác phẩm. Qua câu chuyện ông cũng muốn biểu hiện một triết lý về con người, con người phải có ý chí vượt qua những khó khăn, những chuyện đời không may mắn đến với mình. Khó khăn nào cũng chỉ là một ranh giới có thể vượt qua, và chắc chắn không phải là bức tường làm cho con người tuyệt vọng:
"Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ. Ở đời này không có con đường cùng chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy".
(Mùa Lạc của Nguyễn Khải, Hà Minh Đức)

Thời gian của người ngả hẳn sang chất trang nghiêm thành kính, tác giả dồn tất cả công sức vào việc bàn về những việc lớn trong cuộc đời và đề cập tới những khu vực thiêng liêng cao cả vượt lên trên đời sống thông thường...
Âm hưởng chính: Khẳng định quá khứ (Đọc Thời gian của người của Nguyễn Khải, Vương Trí Nhàn)

Nguyễn Khải viết hơn một thập kỷ nay đã làm chứng cho một ao ước chính đáng nơi ông là muốn đi tới những khái quát nhân sinh, nó là điểm tới xa hơn, sâu hơn so với các tác phẩm cũ. Trong các tác phẩm thuộc loại viết về sau này, cuộc đời hiện ra không phải như cái gì tác giả đã thuộc như lòng bàn tay, mà còn bao điều chính ông chưa biết và không rõ nên cắt nghĩa ra sao. Ông không ngại đi vào những nghịch cảnh, trớ trêu. Ông biết thông cảm với nỗi sợ, niềm đau. Ôg sẵn sàng dùng lại những chữ như số kiếp, thân phận...
Trở lại cái thời lãng mạn (Một vài nhận xét về tiểu thuyết Thượng Đế thì cười, của nhà văn Nguyễn Khải, Vương Trí Nhàn)


Nhiều chiêm nghiệm - triết lý trong Thượng Đế thì cười đã tìm được sự sẻ chia, đồng cảm của người đọc. Chẳng hạn:
"Hạnh phúc không thể chia bớt với ai khác, bất hạnh cũng thế, phúc ai nấy hưởng, tội ai nấy chịu, mỗi người là một nấm mồ với niềm vui và nỗi đau của riêng họ".
"Cái sức mạnh ẩn giấu trong mỗi con người là vô cùng. Cái sức mạnh ấy có thể sánh ngang với Thượng Đế, nhưng chỉ bộ lộ hoàn toàn khi đã lâm vào cảnh ngộ mười phần bế tắc hoặc là chết, hoặc là trở thành người mãi mãi không thể bị đánh bại".
(Nguyễn Khải qua Thượng Đế thì cười, Đào Thủy Nguyên)


Bài viết, phỏng vấn tác giả

"Nếu như trái tim tôi chưa nguội lạnh" (Trả lời báo Tuổi trẻ, 7-1995)
Nguyễn Khải, nhà văn tài năng nhất của thế hệ chúng tôi
(Nhà văn Nguyên Ngọc, Tuổi Trẻ)

Suy ngẫm về sức nghĩ của một nhà văn lớn (GS. Tương Lai, Người đại biểu nhân dân)
Nhìn lại những trang viết của mình (Nguyễn Khải tác phẩm chọn lọc - NXB Giáo dục)

Nhà văn Nguyễn Khải - Tôi chỉ là người của một thời
(Thúy Nga, Tuổi Trẻ)



LinkedInPinterestCập nhật lúc: