Về Schopenhauer và học thuyết triết học của ông

01:09 CH @ Thứ Năm - 27 Tháng Tư, 2006

Sinh thời, Schopenhauer (1788- 1860) là một người lập dị. Ông không bao giờ cho phép thợ hớt tóc cạo râu cho ông, vì sợ người ta có thể cắt cổ mình. Trong phòng ngủ, ông luôn có một khẩu súng nạp đạn sẵn, vì sợ người đời có thể bất ngờ ám hại ông. Một nhà thợ may tốt bụng nhưng lắm điều gây phiền hà cho ông đã bị ông xô ngã xuống nền nhà. Hậu quả là ông phải chịu mọi phí tổn nuôi dường người đàn bà tật nguyền này suốt đời. Sau nhiều lần cãi nhau quyết liệt, mẹ ông đã từ ông, vì không thể chấp nhận một đứa con "lúc nào cũng ca thán về trần gian ngu xuẩn và sự khốn cùng của kiếp người".

Trong lịch sử triết học thế giới, ít có triết gia nào lại phê phán đồng nghiệp như Schopenhauer. Ông phỉ báng Hêgen, em học thuyết của Hêgen là "một thứ triết học vô nghĩa tuyệt đối", là "trò tào lao của kẻ sống trong nhà thương điên". ông kết tội Phichtơ là "một tên ngụy biện" và là "kẻ lường gạt". Có điều, để khỏi bị ra tòa vì tội xúc phạm anh dự người khác, Schopenhauer cũng đã thận trọng thuê luật sư cố vấn cho mình, để ông phê phán mà không hề phạm luật.

Schopenhauer là người căm ghép và kinh miệt phụ nữ. Với ông, đó không phải là phái đẹp, mà chỉ là một giống người thấp bé, vai gầy, chân ngắn, phi thẩm mỹ. Chỉ có thứ đàn ông tăm tối bởi dục vọng mới ngợi ca đó là phái đẹp. Đẹp vì đâu? Đó chỉ là những sinh linh ngu dốt về âm nhạc, thi ca, nghệ thuật, chỉ thích bắt chước, thích làm đỏm, thích hoang phí và dối trá, là sinh vật nửa vời, nằm giữa đứa con nít và người đàn ông.

Schopenhauer không có vợ, ông sống độc thân. Người bạn đời duy nhất của ông là một chú chó xù...

Sự thù hận của Schopenhauer đối với đồng nghiệp, với phụ nữ và thế giới con người nói chung xuất phát từ bi kịch cuộc đời ông, từ sự thất bại chua cay trong khát vọng vinh quang, từ sự đồ vỡ của tình mẫu tử, và hơn hết là từ một cách nhìn đầy bi quan, ảm đạm đối với cuộc sống. Với ông:


1. Thế giới là bể khổ

Cuộc sống là sự lường gạt triền miên. Ý muốn của con người thì vô hạn, còn sự thỏa mãn lại hữu hạn. Con người không bao giờ có hạnh phúc và bình yên. Một ước vọng được thỏa mãn chính là cái nôi nảy sinh ra một ước vọng mới. Cái hiện thực duy nhất trong đời sống chính là sự đau khổ. Hạnh phúc và niềm hoan lạc chỉ là âm bản thiếu vắng sự khổ đau trong chốc lát. Cuộc đời thực sự là một "địa ngục mà trong đó con người vừa là những linh hồn bị đầy đọa, vừa là những ác quỷ".

Để minh chứng cho quan niệm của mình rằng sự sồng chính là sự khổ đau và cuộc đời là địa ngục, Schopenhauer đã đưa ra vô vàn thí dụ trong các nhà thương, các phòng mổ, trại giam, tòa án, trại nô lệ, bãi chiến trường và khẳng định chính Đantơ đã lấy thế giới này làm nguyên mẫu để viết nên "Địa ngục của ông”. Và, cũng chính Đantơ đã thất bại khi viết niềm vui và cõi thiên đường, vì cái thế giới mà ta đương sống đầy không hề có những điều như thế. Nó chỉ có đau khổ, không gì khác ngoài đau khổ. Vì thế, cuộc sống không có gì đáng sống. Sự sống chính là sự chết được phanh lại, cũng như sự đi chính là sự ngã được níu kẻo, kìm giữ. Schopenhauer quan mềm rằng con người đương sống cũng chính là con người đương điên rồ hy vọng "khiêu vũ trong đôi tay thần chết". Nguồn gốc của đau khổ có rất nhiều. Nhưng theo ông, nếu không kể đến sự khốn cùng của phần đông nhân loại, thì con người khổ đau đ hai nguyên nhân chính: Một là, con người là một sinh vật có ham muốn vô hạn, không gì có thể làm đầy nơi thẳm sâu không đáy của trái tim con người, hai là, sự buồn chán luôn luôn là bạn đồng hành của hiện hữu. Sự buồn chán và những ước vọng không được thỏa mãn đã cố kết nên nỗi đau khổ triền miên của kiếp người. Suy cho cùng, số phận con người gắn chặt với cô đơn. Và mỗi người đều cô đơn với chính mình.

Hơn thế nữa, mỗi một cá thể khổ đau vì buồn chán, vì những ham muốn không bao giờ được thỏa mãn kia đâu có dừng lại ở chính mình. Nó không những làm khổ nó bằng dục vọng mà còn biến cuộc sống của kẻ khác thành địa ngục. Biểu trưng cho hành vi con người đối với nhau là sự đối xừ bất công, tàn nhẫn, hà khấc hoặc thậm chí dã man. "Kẻ dữ thi ăn thịt lẫn nhau, kẻ lành thì lường gạt lẫn nhau. Và người ta gọi đấy là lộ trình của thế giới". Không chỉ con người là sinh linh chịu đau khổ, Schopenhauer còn đi xa hơn trong nhận định của mình. Ông cho rằng mọi vật đều chịu chung số phận ấy. Toàn bộ thiên nhiên là một cuộc vật lộn không khoan nhượng vì sự tồn sinh. Thiên nhiên là một trường náo loạn của các sinh vật bị hành hạ và khiếp hãi. Chúng chi tồn tại bằng cách con vật này nghiến ngấu con vật kia. Và mỗi vật đều là nấm mồ sống của trăm ngàn con khác. Một thế giới như vậy, một thiên nhiên như vậy nơi con người là hiện thân của khổ đau, nơi con vật này là mồ chôn của con vật khác, nơi kẻ dữ ăn thịt nhau và kẻ lành lường gạt nhau ... theo ông, thế giới ấy "không nên tồn tại", hoặc nói khác đi, sự tồn tại phải nhường chỗ cho sự không tồn tại.

Quan điểm của Schopenhauer coi cuộc sống là sự khổ đau, nguyên cớ của khổ đau là sự ham muốn vô độ nơi con người cho ta thấy ông rất gần với giáo lý nhà Phật. Có lẽ thời kỳ sống ở Vai ma và nghiên cứu văn hóa Ấn Độ cổ đại đã để lại nhiềudấu ấn trong ông và, cũng thật lý thú khi ta nghe ông bàn về sự giải thoát. Schopenhauer đã đưa ra khái niệm về ý chí nguyên thủy (Urwille), coi đó là cội nguồn của tất cả, là sự khởi phát của mọi khổ đau. Muốn giải thoát mình, con người cần phải phủ định ý chí và nhận thức được rằng trong thảm sâu của mọi hiện thực đều có ý chí nguyên thủy ngư trị, mọi đau khổ trên thế giới đều chỉ là những hiện tượng của một ý chí nguyên thủy luôn luôn xung đột và đối lập với chính nó. Hiểu được như thế, trong tâm tưởng con người sẽ có sự thư thái, không bận lòng vì những hiện tượng khổ đau, sẽ thanh thản từ chối những gì mà trái tim ham muốn, sẵn sàng chịu khổ đau để cuối cùng đến được với sự yên tĩnh hoàn toàn trong tăm khảm, không còn ham muốn. Và, Schopenhauer khẳng định: thay cho những khát vọng không bao giờ được thỏa mãn, những thôi thúc và đòi hỏi không ngừng, ta sẽ có sự yên bình, sẽ đến được với "sóng yên biển lặng của tâm tại. Phủ định ý chí và dục vọng bằng cách nhìn nhận mọi sự việc, mọi hành vi trên đời chỉ là những hiện tượng bên ngoài của một cội nguồn sâu thẳm không thể lý giải và nhận thức, đó là cách giải thoát về phương diện lý thuyết, còn về thực hành, Schopenhauer cho rằng con người cần "đồng cam chịu khổ" (Mitleiden) với người khác để giúp cho người khác đỡ khổ. Lập luận của ông là như sau: nếu mọi sinh linh đều bị bao trùm bởi một ý chí nguyên thủy thống nhất thì các sinh linh đó đều gắn bó với nhau từ cội nguồn. Nghĩa là, về thực chất, tất cả chỉ là một. Không có những giới hạn lường gạt các cá thể. Coi cái khổ của người khác như cái khổ của chính mình, từ đó sẽ hình thành sự thương cảm, đồng cam chịu khó, và con người, không còn là một cá thể, sẽ gánh chung nỗi khổ của toàn nhân loại, của mọi sinh linh. Sự thương cảm sẽ là cội nguồn của những hành vi đạo đức vượt qua tính vị kỷ, sẽ thể hiện trong lòng thương người vả sự công bằng. Tóm lại: sự thương cảm, đồng cam cộng khổ là cội nguồn của cái thiện, còn sự ích kỷ là cội nguồn của cái ác. Đó chính là nguyên tắc cơ bản trong đạo đức học Schopenhauer.


2. "Thế giới là ý chí và tưởng tượng".

Tác phẩm chủ yếu này của Schopenhauer, người đã tự xưng là "hoàng đế của triết học" và tấn phong các học trò của mình là "các thánh tông đồ", được viết ra khi ông mới 30 tuổi. Cuốn sách ra đời năm 1819, phần lớn bị bán làm giấy vụn. Tác giả và tác phẩm rơi tôm vào quên lãng, mặc dù ông' đã khẳng định tác phẩm này... "là một hệ thống triết học mới.... là một chuỗi tư tưởng gắn bó với nhau ở mức cao có nhất mà xưa nay chưa có đầu óc nào nghi ra". Mãi hai mươi năm sau, khi làn sóng bi quan bao trùm khắp nước Đức sau thất bại của cuộc cách mạng năm 1848, người ta mới đổ xô nhau tìm đọc tác phẩm của ông, coi ông như một thần tượng của triết học và cuốn sách bi vứt đi kia bỗng trở nên sáng giá.

Có thể nói, toàn bộ tư tưởng triết học của Schopenhauer được gói gọn trong mệnh đề "Thế giới là ý chí và tưởng tượng". Tất cả những gì ông viết ra sau này chỉ là sự bình giải, bổ sung hoặc chi tiết hóa mệnh đề đó. Tùy theo giác độ nghiên cứu và quan sát, công trình nói trên của ông có thể được nhìn nhận là siêu hình học (quyển I, quyển II), là đạo đức học (quyển III), hoặc mỹ học (quyển IV).

Mở đầu tác phẩm, Schopenhauer viết: "Thế giới là sự tưởng tượng của tôi". Với mệnh đề nảy, ông muốn khẳng định rằng toàn bộ hiện thực tồn tại trước hết là hiện thực thuần túy, do con người tưởng tượng ra. Những gì mà con người trực tiếp lĩnh hội được chưa phải là cái cách mà vật thể tự nó là như thế hoặc đúng như thế Con người không biết gì hết về cái cây tự nó mà chỉ biết sự tưởng tượng của chính mình về cái cây, cũng như "không biết gì về mặt trời, về trái đất, mà chỉ là con mắt nhìn thấy mặt trời, bàn tay cảm nhận được trái đất", nói cách khác, vạn vặt chỉ là những hiện tượng. Ở điểm này, Schopenhauer rất gần với Cantơ. Bản thân ông đã khẳng định triết học Cantơ là cửa ngõ để đi vào triết học của ông, ai muốn hiểu ông, người đó cần hiểu Platôn, Cantơ, và triết học Ấn Độ.

Schopenhauer cũng theo sát ý tưởng của Cantơ khi ông gạt bỏ khỏi đối tượng không gian, thời gian, tính nhân quả mà quy chúng vào tinh thần con người, khi ông nhận đinh rằng mọi vật tự nó không mang tính không gian, thời gian hay tính nhân quả mà là do con người khởi thủy đã mang trong mình thời gian, không gian và tính nhân quả rồi gán chúng vào thế giới. Luận đề này về tính hiện tượng của thế giới đặc biệt có ý nghĩa đối với những yếu tố bi quan chủ nghĩa trong học thuyết triết học của Schopenhauer. Có thể nói rằng luận đề thứ nhất của ông chưa phải là khám phá mới mê trong triết học, nó cũng tương tự như Cantơ hay Platôn. Một khi Schopenhauer khẳng định: thế giới là sự tưởng tượng của tôi, thì trước ông, Cantơ đã viết: mọi vật được mang lại cho ta chỉ là những hiện tượng, Platôn cũng đã nói: thế giới hiện ra đối với mọi cảm giác không hài là tồn tại đích thực, hoặc kinh Vệ đà cũng đã chỉ rõ: thế giới nhìn thấy được là cái bên ngoài không có bản chất, là lớp màn che phủ, hay nói ngắn gọn là maya.

Tuy nhiên, nếu cách nhìn nhận hiện thực của Schopenhauer chỉ dừng lại ở luận đề "thế giới là sự tưởng tượng của tôi" thì ông cũng chỉ mới bước tới chủ nghĩa duy tâm thuần túy, còn thế giới thì chẳng là gì khác ngoài cái "bên ngoài", ngoài sự tưởng tượng muôn thuở. Khi nghiên cứu sâu hơn về sự tưởng tượng ấy Schopenhauer muốn tìm xem đằng sau những hiện tượng là cái gì? Điều này Cantơ đã nói tới khi ông đưa ra một khái niệm rất khó xác định, đó là "vật tự nó". Schopenhauer đã đi xa hơn Cantơ khi ông tìm ra bản chất của cái gọi là "vật tự nó" ở Cantơ. Bản chất ấychính là ý chí. Và luận đề thứ hai của Schopenhauer chính là: Thế giới là ý chí.

Nếu chỉ nghiên cứu từ bên ngoài thì không sao đến được với bàn chất của vạn vật, cũng giống người đi quanh một ngôi nhà mà - không sao tìm được lối vào. Schopenhauer cho rằng con đường duy nhất để đi đến bản chất nằm trong chính chúng ta, trong từng cá thể, bởi váy ông đã nghiên cứu cơ thể con người dưới góc độ triết học. Theo ông, cơ thể con người là một biểu trưng của hai dạng thức: một là, nó là sự tưởng tượng đã được khách thể hóa, "có thể nhìn thấy được", là khách thể trong mối quan hệ nhân quả của mọi hiện tượng, hai là, cơ thể con người còn là một cái gì đó tiềm ầm sâu xa mà chỉ chính nó mới cảm nhận được. Sự tiềm ẩm sâu xa ấy chính là ý chí . Nghĩa là, cơ thể con người không những lả một hiện tượng, một khách thể, mà là sự biểu đạt của ý chí. Mọi vận động của cơ thể đều xuất phát từ những xung động của ý chí, đều là những hình thái biểu đạt ra bên ngoài của ý chí. Cả những cơ quan chức năng lẫn hình dáng cơ thể đều là những phương thức biểu đạt. Từ đó Schopenhauer đã đi đến luận điểm cho rằng cơ thể con người chính là ý chí đã được khách thể hóa thành đối tượng có thể nằm thấy được. Nó vừa là một vặt thể, nhưng xét theo góc độ "Vật tự nó" thì đó là ý chí. Schopenhauer cho rằng chính ông là người đã khám phá ra bản chất của cái mà Cantơ gọi là "Vật tự nó", rằng ý chí chính là bản chất sau xa nhất của con người. Theo ông, cơ thể người chính là ý chỉ được khách thể hóa theo không gian và thời gian. Đó là chân lý triết học đích thực nhất. Bản chất của con người (hiểu theo nghĩa là ý chí) không nằm trong ý thức, trong tư duy hay lương tri. Đó là sự làm ác muôn thuở của các triết gia mọi thời đại. ông quan niệm rằng ý thức chỉ là bình điện bên ngoài của bản chất, y như lớp vỏ ngoài của trái đất chúng ta. Cả những tư tưởng, ý nghĩ cũng chỉ là bề mặt bên trên của một nguồn nước ngầm sâu thẳm. Quá trình hình thành những phán xét của chúng ta không phải là sự liên kết những ý nghĩ mạch lạc theo quy luật lôgic mà nó diễn ra từ nơi sâu thẳm, gần như là vô thức, giống như sự tiêu hóa. Con người thường kinh ngạc vì chính mình bất chợt có những ý nghĩ, những quyết định nảy sinh không thể lý giải được vì đâu. Trong chốn thâm sâu đầy bí hiểm luôn có ý chí ngự trị, nó điều khiển kẻ nô bộc của mình là con người. Nhưng ý chí chí là kẻ cai trị mù lòa. Nó vác trên vai mình một kẻ bị tê liệt nhưng nhìn được vạn vật. Con người dường như được kẻo về phía trước, nhưng thực ra thì nó được đấy từ phía sau, từ một nơi bí huyền sâu thẳm. Sức mạnh ấy chính là ý chí sống vô thức, nó không hề biến đổi, tồn tại trong mọi mạch tư duy và hành vi con người. Cả trí nhớ cũng chỉ là cô hầu gái của ý chí. Những gì con người gọi là tính cách hay nhân cách cũng đều do ý chí quyết định. Mọi chúc năng hữu thức đều thấm mệt và cần đến giấc ngủ, duy chỉ có ý chí là vĩnh viễn tỉnh táo, giống như sự hô hấp, như hoạt động của trái tim, không ngừng và không bao giờ mệt mỏi, vì tất cả đều diễn ra một cách vô thức.

Schopenhauer cũng đã vận dụng quan điểm coi "cơ thể người vừa là hiện tượng vừa là ý chí được khách thể hóa" như một chiếc chìa khóa để lý giải bản chất của mọi hiện thực. Theo ông, mọi sự vật đều lả một sự biểu đạt, một sự hiện thực hóa của ý chí ngự trị trong nó. Sức mạnh của ý chí ngư trị khắp nơi. Sức mạnh ấy khiến cho cỏ cây đâm chồi nẩy lộc và úa tàn, khiến cho cho nam châm quay về hướng bắc cực, khiến viên đá rơi xuống trái đất, kẻo trái đất về hướng mặt trời... Nghĩa là cả thế giới đều là sự khách thể hóa của ý chí, thế giới là ý chí.

Với quan niệm ý chí là bản chất, là động lực điều hành vạn vật, Schopenhauer đã có những kiến giải đáng chú ý về con người, nhất là về quan hệ lứa đôi. ở nơi con người, sự biểu đạt mạnh mẽ nhất của ý chí sống là động lực duy trì nòi giống. Động lực này mạnh tới mức khiến con người phớt mặc cả cái chết của cá nhân. Một khi sự bảo tồn cá thể được thực hiện thì sinh vật người vươn tới sự duy trì nòi giống nhằm bảo tồn chủng loại. Nếu nhận thức của con người ngư trị trong bộ não thì bộ phận sinh lý của nó là nơi ngự trị của động lực tính dục, là tiêu điểm của ý chí và đối cực của não bộ. Hai cá thể khác giới có sức hút mạnh mẽ đối với nhau, đó là nhờ sức mạnh bất khả kháng của ý chí sống thể hiện trong chủng loại. Tình yêu chỉ là trò lường gạt của tự nhiên vì mục đích duy nhất là bảo tồn nòi giống. Hai cá thể tìm đến nhau hoặc gọi là "yêu nhau", về thực chất em là việc thực hiện sự lựa chọn để bảo tồn một "kiểu" chủng loại. Cá thể "yêu' cái mà mình không có. Nó chọn cho mình một đối tượng phù hợp nhất với sự bảo tồn của một kiểu chủng loại nhất định, ví như cá thể nam tính nhất sẽ tìm chọn một cá thể nữ tính nhất hoặc ngược lại. Trong sự lựa chọn này, cá thể hành động nhưng không biết vì sao lại hành động, bởi nó thực thi một sứ mạng của cái cao cả hơn, đó là chủng loại. Do đó, sự đam mê cái khác giới bị mê hoặc bởi ý chí chủng loại hơn là bởi cá nhân . Một khi mục đích bảo tồn nòi giống được bảo tồn từ phía cá thể thì trò chơi lường gạt của tự nhiên là tình yêu cũng mất đi mọi ý nghĩa. Sắc đẹp của đàn bà, một thứ nghệ thuật quan trọng nhất, một phương tiện dẫn đến mục đích truyền giống và bảo tồn nòi giống sẽ sớm tàn phai sau khi đã thực hiện được chức năng. Trong tình yêu tình dục, mỗi cá thể thực chất chỉ là công cụ của chủng loại. Tình yêu chết dần trong hôn nhân vì thiên nhiên không cần chơi trò lường gạt nữa. Chỉ có ý chí sống thể hiện trong chủng loại là mãi mãi không đổi theo không gian và thời gian. Đó là một hình thái không thay đổi, chỉ có vật chất ở mỗi cá thể đổi thay theo thời gian và không gian mà thôi, giống như cái bình muôn đời cũ chỉ thay bằng rượu mới.

Schopenhauer cũng đã áp dụng quan điểm này vào lịch sử. Theo ông, đằng sau tất cả mọi hiện tượng là ý chí bất di bất dịch của thế giới. Dù có sự khác biệt giữa các dân tộc, thời đại, trang phục, tập quán, ngôn ngữ... thì ở mọi nơi, một thời đại cũng vẫn chỉ là nhân loại ấy. Chỉ có sự khác biệt về vật chất, còn hình thái vẫn thế, vẫn là nhân loại muôn thuở. Do đó, theo ông, kẻng có cái gọi là sự tiến bộ của lịch sử. Biểu tượng của mọi diễn biến đều là một vòng tròn. Mọi thời đại các nhà thông thái cũng chỉ nói những điều giống nhau, mọi kẻ gàn cũng chỉ nói những điều như nhau, và đàn ông đàn bà mọi thời đại cũng vẫn chỉ là những công cụ thực hiện ý chí sống trong chủng loại.

Đánh giá các quan điểm siêu hình của Schopenhauer, các triết gia đương đại cho rằng ở Schopenhauer có những nhận định giống các nhà duy tâm như Se linh hay Phichtơ. Ông cũng tìm cách khám phá bí mật của thế giới trong bản thân cái môi, giống như Phichtơ nói bản chất của cái tôi là ý chí và sẽ nhìn thấy ở giới tự nhiên và tinh thần một sức mạnh vô thức, có khả năng kiến tạo và thúc đẩy. Nhưng cái khác ở Schopenhauer là ở chỗ: trong khi đối với các nhà duy tâm thì cái cuối cùng và tuyệt đối là tinh thần, ý niệm, lý trí phát triển trong một quá trình vận động hướng đích, thì đối với Schopenhauer lại là một ý chí mù lòa, một cội nguồn thế giới phi lý tính và ngược lại với lý trí. Đối với ông, thế giới không phải là lôgic hay phi lôgic, mà là phản lôgic, lý trí là công cụ của ý chí phi lý tính. Chính ở điểm này Schopenhauer đã phá vỡ mạch tư duy xưa nay về sự hài hòa của một thế giới chỉnh thể. Và, ông đã thực sự là người thực hiện bước quá độ từ chủ nghĩa lạc quan sang chủ nghĩa bi quan. Công lao mãi mãi của ông đối với giới triết học là ở chỗ: chính ông đã hướng triết học vào chiều sâu thăm thẳm nằm phía dưới tầng ý thức của con người, và với châu Âu, ông là người đã mở đường cho triết học và tâm lý học vô thức ra đời và phát triển.

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Immanuel Kant từ triết học phê phán đến nghiên cứu con người

    12/04/2006Hồ Sĩ Quý...đến giai đoạn triết học phê phán, I. Kant mới xuất hiện như là một nhân vật "khổng lồ". Với ba tác phẩm có tựa đề "phê phán"... ("Phê phán lý tính thuần tuý", "Phê phán lý tính thực tiễn" và "phê phán năng lực phán đoán"), triết học I. Kant - một kiểu triết học có tư duy độc đáo trong văn hoá Tây Âu, đã trở thành điểm khởi đầu của một dòng triết học ảnh hưởng to lớn đến lịch sử văn hoá nhân loại - triết học cổ điển Đức...
  • Ý nghĩa của phép biện chứng Heghen

    20/01/2006Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Trọng ChuẩnTriết học luôn luôn phải hướng tới tương lai bởi vì như C. Mác nói: triết học không chỉ giải thích thế giới mà còn phải góp phần cải tạo thế giới. Đặc biệt. triết học mácxít khi thực hiện chức nàng thế giới quan và chức năng phương pháp luận của mình. không thể không hướng tới tương lai. Song, để hướng tới tương lai và phục vụ tốt cho tương lai thì triết học nói chung đồng thời cũng không ngừng hướng về quá khứ, lịch sử về cội nguồn của mình.