Hành trình từ “chuyên chính vô sản” đến “làm chủ tập thể” và “Nhà nước pháp quyền Việt Nam”
Trên đất nước ta, đó là một hành trình gian truân với cái giá phải trá khá đắt.Nhưng là những bước thuận theo quy luật vận động của cuộc sống, và là sự trở lại vớitư tưởng
Trên đất nước ta, đó là một hành trình gian truân với cái giá phải trả khá đắt. Nhưng là những bước thuận
I. Về chuyên chính vô sản
Quả thật chuyên chính vô sảnlà khái niệm đã chi phối hoạt động của các Đảng Cộng sản trong một thời gian rất dài nhất là khi Đảng đã nắm chính quyền. Một khái niệm có ảnh hưởng tác động đến sinh mệnh của triệu triệu con người. Khái niệm ấy gắn liền với giai cấp và đấu tranh giải cấp,được xem là động lực của phát triển. Người ta từng cho rằng đây là một khái niệm then chốt trong tư duy lý luận của học thuyết C.Mác. Tuy vậy, đã đến lúc phạt thật sự tường minh trong cách nhận định và phân tích về khái niệm quan trọng vốn có một diễn biền khá phức tạp. Làm sáng tỏ điều này là một nhu cẩu trực tiếp của việc đẩy tới sự nghiệp đổi mớimột cách toàn diện và triệt để.
Vì đổi mới là nhằm vứt bỏ những công thức, những giáo điều của một thời cứ ngỡ như là "thiên kinh địa nghĩa" song đã bị cuộc sống bác bỏ hoặc vượt qua, những gì mà qua khảo nghiệm khách quan và nghiêm khắc của thực tiễn, lý luận ấy đã tỏ rõ sự bất cập, sai lầm hoặc thiếu hoàn chỉnh. Do vậy phái bổ sung sức sống mới, nhằm hình thành những luận điểm mới, phạm trù mới giúp hoàn chinh một lý luận phản ánh được thực tiễn đang vận động. Nhờ đó, làm cho lý luận gần kết được với thực tiễn, gắn với chân lý hơn, có tác động thúc đẩy sự phát triển. Quả thật là,"vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thé đạt tới chânlý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đềlý luận mà một vấn đềthực tiễn. Chính trongthực tiễn mà con người phái chứng minh chân lý, nghĩalà chứng minh tính hiệnthực và sức mạnh, tính trần tục củatư duy củamình", điều mà C.Mác đã căn dặn. Hãy vận dụng quan điểm ấy vào việc xem xét luận điểm về "chuyên chính vô sản"của chính ông.
1. Lần đầu tiên C.Mác dùng từ "chuyên chính vô sản"là năm 1848. Thật ra thì "chuyên chính vô sản” xuất hiện vào quãng 1837, là cụm từ của
Thật ra, đây chỉ là một tiên đoán.Mà là một tiên đoán chưa có bao nhiêu căn cứ lý luận cũng như thực tiễn. Trong thực tiễn, thời C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ có duy nhất 53 ngày công xã trong một thành phố là Paris, ngoài ra không có thực tiễn nào khác về cách mạng vô sản thắng lợi và thiết lập chuyên chính vô sản cả. Nói nôm na thì "chưa có bột để gột nênhồ", hoặc là quá ít bột, chưa thể đủ "gột" nên bất cứ thứ "hồ" gì! Thực tế lịch sử đã chứng minh sự phân tích của C.Mác về tình thế khủng hoảng và cách mạng vào giữa thế kỷ XIX là không đúng. Và C.Mác đã sớm nhận ra điều đó.
3. Khái niệm "chuyên chính vô sản"trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã chuyển đổi và mở rộng nội dung của nó ra. Cùng với thời gian và diễn biến rất phức tạp, việc nhận cho ra đâulà tư tưởng lý luận của chính C.Máclà điều hết sức cần thiết vì nó tránh được những ngộ nhận sai lầm.
Có nghĩa là, với
Vào cuối đời, những năm 1923 và 1924, V.I Lênin nhiều lần vạch rõ những lệch lạc, suy thoái của chính quyền Xô Viết, nhất là tệ quan liêu và tham nhũng.
4. Đến J.Stalin thì chuyên chính vô sản chỉ còn là Đảngtrị, Đảng trở thành "siêu Nhà nước", Đảng mới chínhlà Nhà nước.Với J.Stalin, hệ thống chính trị chuyên chính vô sản gồm: Đảng là hạt nhân trưng tâm lãnh đạo toàn bộ hệ thống còn Nhà nước, Công đoàn và các đoàn thể quần chúng là những dây chuyền chuyền tải giữa Đảng và nhân dân. Và như thế là nhân dân ở ngoài hệ thống chính trị.Nhà nước chuyên chính vô sảntrong nhận thức và trong hành động của J.Stalin đã mất hẳn triển vọng tự tiêu vong. Ngược lại, ngày càng tăng cường trong chế độ Đảng - Nhà nước. Mô hình chính trị, kinh tế, xã hội cua "chuyên chính vô sản” thời J.Stalin dần dần thể hiện bốn đặc điểm bản chất sau đây:
Một là Đảng lãnh đạo, mà thật ra là nhân danh Đảng mà caitrị, thực chất là sự cai trị của nhữngngười cóchức có đặc quyền, đặc lợi trong Đảng và trong xã hội.Hai là, nhanh chóng thực hiện chế độ công hữudưới hai hình thức Nhà nước và tập thể, xóa bỏ tư nhânvà thị trường.Ba là, quản lý kinh tế, xã hội
Liên bang Xô Viết dưới thời J.Stalin đã có những thành tựu vĩ đại, những chiến công hiển hách trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, những bước dẫn đầu rất ngoạn mục về xây dựng kinh tế, phát triển khoa học và công nghệ, sáng tạo văn hoá, văn học nghệ thuật, nâng cao phúc lợi xã hội cho nhân dân, giúp đỡ rất nhiều và có hiệu quả cho nhiều nước, nhiều dân tộc, có cống hiến lớn lao cho cả loài người.
Tuy nhiên, chuyên chính vô sản thời J.Stalin đã phạm những sai lầm và cả những tội ác. Đã từng có đến 70% ủy viên và ủy viên dụ khuyết BCHTW của Đảng được bầu tại Đại hội năm 1934 bị bắt, bị bỏ tù và bắn chết, tứclà 98 trên tổng số 139 ủy viên! Đã từng có những sự cưỡng bức nặng nề và cá những sự chuyên chính tàn bạo với công dân, nông dân, đặc biệt là đối với trí thức. Nhiều nhà khoa học lỗi lạc bị vô hiệu hoá, thậm chí bị tù đày, bị thủ tiêu, nhiều ngành khoa học có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của đất nước và con người như xã hội học, tâm lý học, điều khiển học, di truyền học... bị xem là những "khoa học tưsản", đồng nghĩa với việc cấm hoạt động, xây dựng, phát triển. Đây sẽ là lý do cơbản khiến cho nền khoa học vốn một thời ở trình độ cao của thế giới dần dần trở thành lạc hậu, không bắt kịp với sự phát triển
Sinh thời Stalin, rồi sau J.Stalin cho đến ngày Liên Xô sụp đổ, nguyên nhân suy thoái dần từ bên trong, tạo thuận lợi cho lực lượng thủ địch bên ngoài, dẫn đến tan rã không phải là do không nắm vững “chuyên chính vô sản",mà là đã thực hiện chuyên chính vô sản một cách cực kỳ sai lầm. Ngaycả thời kỳ hàng chục năm khi Liên Xô bỏ hẳn không dùng cụm từ "chuyên chínhvô sản"và tuyên bố không thi hành "chuyên chính vô sản" nữa, thì những hệ lụy của mô hình J.Stalintiếp diễn với những biến thái mới đặc biệt là sự thiếu dân chủ và không dân chủ,đã dần dần làm mất lòng tin của nhân dân Xô Viết và của cả 20triệu Đảng viên Đảng cộng sản Liên Xô. Và đó chính là nguyên nhân cơ bảnđẩy tới sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
Ở Trung Quốc, tuy chủ trương thực hiện nhân dân dân chủ chuyên chínhcủa bốn giai cấp chứ không dùng "chuyên chính vôsản"nhưng sai lầm của mô hình Mao-ít với lý thuyết cũng tương tựnhư lý thuyết của J.Stalin đã dẫn ra ở trên, là càngđi sâu vào xây dựng CHXH thì đấu tranhgiai cấp càng gay gắt,mở đường cho những cuộc trấn áp phản dân chủ rồi những cuộc đấu tốtrong cái gọi là "đại cách mạng vănhóa" mà thực chất là các cuộc thanh trừng lẫn nhau trong nội bộ thế lực cầm quyền mà hậu quả là mấy chục triệu người chết, trong đó có cả những “khai quốc công thần"! Trong một Hội thảo khoa học tại
Trong phong trào cộng sản quốc tế, trong những người cộng sản, trong các nước XHCN một thời, đã có không ít ý kiến cho rằng quan niệm và thực tiễn chuyên chính vô sản chứa đựng nhiều bất ổn cần phải đượcnhìn nhận lại. Những ý kiến ấy đã bị lên án nặng nề, bị gạt bỏ, bị trấn áp để suốt gần nửa thế kỷ, từ năm 19/9, khi thành lập "Quốc tế cộng sản",đến cuối những năm 60 của thế kỷ XX, các Đảng cộng sản trên thế giới đểu coi chuyên chính vô sản là lý luận kinh điển và chủ trương cơ bản. Cho đến cuối thập kỷ 1960, nhiều Đảng cộng sản lớn như Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Ý... rồi đến những Đảng cộng sản trung bình và nhỏ đã có chính quyền hoặc chưa nắm được chính quyền, đều lần lượt từbỏ chuyên chính vô sản.Có Đảng lẳng lặng từbỏ, có Đảng giải thích rằng cụm từ "chuyên chính vô sản"dễ gây phản cảm, không được tán thành bởi nhiều người tiến bộ và yêu nước.
Và rồi, cho dù bị quyết liệt ngăn chặn, cản trở bới những thế lực bảo thủ, giáo điều tìm thấy sự duy trì "chuyên chính vô sản"phù hợp với việc bảo vệ lợi ích và quyển lực đang có của họ, mô hình sai lầm ấy đã bị vứt bỏ. Cuộc sống không chấp nhận cả lý thuyếtvà thực tiễn "chuyên chính vô sản" kiểu "Stalinnit".
Ở ta, vấn đề "chuyên chính vô sản"quả thật đã từng giữ vị tri "then chốt” trong tư duy của Đảng cầm quyền. Những ngộ nhận về nội dung của "chuyên chính vô sản”
Khắc phục cho được hệ lụy này xem ra còn phải có một cố gắng lâu dài và hết sức nhẫn nại. Vì rằng, như Lênin đã từng cảnh báo: "Đối với một người cách mạng chân chính thìmối nguy hiểmlớn nhất, thậm chí có thểlà mối nguy hiểm duy nhất,là phóng đại tinh thần cách mạng, là h am nhữnggiới hạn và những điều kiện của một sự vận dụngcó kết quá và thóa đáng nhữngphươngpháp cách mạng". Cái lối "phóngđại" này, mà lại là "phóng đại tinh thần cách mạng” xem ra không chỉ có ở nước Nga thời Lênin! Nó được vận dụng rất phổ biến trong nhiều quốc gia mà nước ta cũng không thoát khỏi cái vòng “
Hiểu rõ cánh báo của
Đến năm 1 937, Người lại nhắc nhở "Các đồng chí trong Đảng cần phải hiểu rằng: Đảng ta chẳng nhữnglà kẻ bênhvực và lãnh đạo cho giai cấp vô sản mà thôi, mà cũnglà kẻ bênh vực và lãnh đạo cho toàn thể dân chúngnữa. Đảng phải làm tròn vai trò ấy".Nhớ lại, từ1924,
Bằng tầm nhìn ấy, Hồ Chí Minh đã hạn chế đến mức thấp nhất những sai lầm trong cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức theo sự dẫn dắt của quan điểm phóng đại tinh thần cách mạngnằm trong nội dung của "chuyên chính vô sản"được tác động của đường lối kiểu "Stalinnít" hoặc "Mao ít" cố sức cường điệu và "phóng đại tinh thần cách mạng",đưa tới những hệ lụy đau đớn. Cần phải có sự nghiêm túc và sòng phẳng đối với những sai lầm và hệ lụy ấy.
6. Tóm lại, C.Mác và Ph.Ăngghen có một số ý tưởngvề "chuyên chính vô sản",nhưng không có và không thể có lý luận về "chuyên chính vô sản”. Những ý tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen có điều đúng nhưng cũng có nhiều điều không đúng do đánh giá sai tình hình chủ nghĩa tư bán, và do khái quát hóa quá vội vàng từ một kinh nghiệm quá ngắn ngủi và không thành công của Công xã Paris (mà về điểm này, về sau C. Mác và nhất là Ph.Ăngghen đã có tự phê bình).
Vì thế, khẳng định rằng chuyên chính vô sảnlà vấn đề chú yếu, cũng như khắng định giá tri thặng dưlà hòn đá tảngcủa học thuyết Mác là những ý kiến của những người học trò của C. Mác chứ C.Mác không hề khẳng định như vậy. Ở đây có những lý do, những động cơ rất khác nhau của sự khẳng định ấy mà trong một bài viết ngắn chưa thể nói kỹ.
Chính vì thế, ý tưởng về "làm chủ tập thể” là một cố gắng tìm tòi, bứt phá nhằm vượt ra khỏi mô hình "chuyên chính vô sản” trên hành trình trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh về “Nhà nước pháp quyền”.
1. Phạm trù làm chủ tập thểhình thành trong suy tư về vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo cho nhân dân thực hiện được quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của mình. Phải biết tước bỏ những cách hiểu dung tục, thô thiển để nhìn vào chiều sâu triết lý và sự vận động của lịch sử hướng tới một hình thái xã hội mới ra đời ngay trong lòng xã hội hiện tồn. Đó là khi bằng cách mạng giành lại độc lập cho dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân trong một Nhà nước dânchủ, thì không thể áp dụng hình thái "Nhà nước chuyên chính vô sản"được nữa. Hạt nhâncủa triết lý làm chủ tập thểchính là sự khẳng định "'quyền hành và lực lượng đều nơi dân”và đấy cũnglà cốt lõi của tư tưởng
2. Tuy vậy, do chịu ảnh hưởng của sự áp đặt mô hình Xô Viết, nên tại Đại hội II năm 1951, trong "Bàn về cách mạng Việt Nam”của Trường Chinh, khái niệm "chuyên chính vô sản"được xác định là một hình thức Nhà nướcxuyên suốt tiến trình cách mạng, thể hiện dưới dạng của "chuyên chính nhân dân"theo kiều nói của Trung Quốc đã dẫn ra ở trên. Kể từđó, phạm trù "Nhà nước dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ “chuyên chính vô sản"được nói đến thường xuyên trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước.
Vì vậy, có thề nói, thực chất của sự hình thành luận điểm “làm chủ tập thể" của Lê Duẩn là nhằm thay thế cho lý luậnvề "chuyên chính vô sản" mà với cươngvị làngười có trách nhiệm lớn nhất với đất nước, với dân tộc, ông không đồng tình.Tư tưởng chính trị cơ bản của
Mặc dù nhận thức như vậy, song vì ý thức tổ chức và kỷ luật, phục tùng một ý kiến đa sốtrong lãnh đạo của Đảng còn dai dẳng những năm 70 của thế kỷ XX, chứ trong tư duy, Lê Duẩn đang tìm mọi cách đề thoát ra khỏi cái mô hình áp đặt mà ông đã nhìn thấy là không ổn, là bất cập. Quả đúng như tác giả của bài viết về Lê Duẩn nhân ký niệm 50 năm "Đề cương cách mạng Miền Nam" nhận xét: “Vói vị trí Tổng Bí thư của mình, ông cũng không đột phá nổi độ dày của bảo thủ, giáo điều, đường mòn xơ cứng”. Độ dàyấy đã hằn quá sâu trong đời sống tinh thần của xã hội, trước hết là trong não trạng của những người chịu trách nhiệm về hoạt độnglý luận của Đảng. Vì thế trong báo cáo chính trị đọc tại Đại hội IV có đoạn: “Muốn đưa sự nghiệp cách mạng ấy đến toàn thắng, điều kiện quyếtđịnh trước tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chínhvô sản,thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chú tập thể của nhân dân lao động".Tuy nhiên, tiếp ngay câu trên, Lê Duẩn trình bày đường lối chung của Đảng, trong 16 dờng, làm nổi rõ lên tưtưởng nắm vững chuyên chính vô sản chínhlà thực hiệnvà phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.Tiếp đó, trong 183 dòng thuyết trình về xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCNtrên các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, đầy đủ hơn nhiều, độ dài cũng gấp 10 lần so với mấy dòng trình bày về chuyên chínhnói trên.
Lý do chính là, trong tìm tòi suy ngẫm, tư duy của Lê Duẩn không tán thành áp đặt mô hìnhXô Viết với thể chế Nhà nước chuyên chính vôsản khi mà nhân dân đã bằng cuộc chiến đấu ròng rã với biết bao hy sinh của nhiều thế hệ kế tiếp nhau để giành được quyển làm chú đất nước, làm chủ xã hội. Lẽ nào lại có thể "chuyên chính"theo kiểu trấn áp tàn khốc cán bộ, đáng viên, công nhân nông dân, trí thức diễn ra ở Liên Xô dưới thời J.Stalin hay ở Trung Quốc thời Mao như đã dẫn ra ở trên. Phạm trù làm chủ tập thểhình thành vả hoàn chỉnh dần, tuy vẫn còn dang dở và còn nhiều vấn đề gây tranh cãi nhưng đã thể hiện sự bứt phá ra khỏi những giáo điều gây ra quá nhiềutai hại mà hầu hết các Đảng Cộng sần trên thế giới, các Đảng đã nắm chính quyền hoặc đang đấu tranh đều đã từ bỏ.
Tại Đại hội
Đến Đại hộiVIII thì khái niệm Nhà nước pháp quyềnđược chính thức đi vào đời sống xã hội bằng sự khẳng định: "Tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền. Quản lý xãhội bằng phápluật…". Quả thật, đây là một sự điều chỉnh muộn màng so với hầu hết các Đảng cộng sản trên thế giới. Đáng tiếc là sự muộn màng ấy lại đã thường xảy ra. Mà xảy ra trước hết lại là ở lĩnh vực hoạt động lý luận ở những nhà lý luận vốn chiếm giữ những vị trí có tác động lớn đến đời sống tinh thần của xã hội. Ở đây, cái bóng dáng của "chuyên chính vô sán"thể hiện khá rõ trong tệ độc quyềnchân lý, áp đặt tư duy và tùy tiện quy kết, củacái thói chỉ quen độc thoạiđề "ban phát chân lý" đã bị độc quyền chiếm dụng, mà không chịu nổi sự đối thoại bình đẳng và công khaiđể làm sáng tỏ chân lý khách quan, nhân danh sự đề phòng "chệch hướng" ra khỏi quỹ đạo "xã hội chú nghĩa”.
Ấy thế mà, như Phạm Văn Đồng đã từng khẳng định, các nhà sáng lập ra học thuyết Mác “chưa bao giờ đề ra một định nghĩa có tính chất hình mẫu về chủ nghĩa xã hội khoahọc, chính khoa học là ở chỗ đó". Ông thường hay dẫn ra câu nói nổi tiếng của Gớtđể cảnh báo các nhà lý luận: "Lý thuyết thì màu xám. Còn cây đời thì mãi mãi xanh tươi”.Và chính ông đã từng tự phê bình về việc "sao màmình có thể quay lưnglại với biết bao sự thật hằng ngày diễn ra trước mắt mình để lao vào những sai lầm với những cái giá đắt phải trả. Rõ ràng đây là một sự thiếu sáng suốt trong nhậnthức và hành động, tronglý luận và thực tiễn"
Nhận thức là có một quá trình không kém gian nan, nhất là khi tự mình phải vượt lên chính mình để tiếp cận được với sự vận động không ngừng của cuộc sống. Thậm chí, cho đến nay, vẫn có ý kiến cho rằng "các vấn đềlớn trong Văn kiện Đại hội X đều ẩn chứanội dung vàchức năng của chuyên chính vô sản… mặc dầu không nhắc đến cụm từ chuyên chính vô sản”.
"Màu xám"của lý luận đang thách thức "cây đời xanh tươi”.Và chúng ta đủ kiên nhẫn để tin rằng, cuộc sống mạnh hơn mọi giáo điều đã học thuộc lòng.
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đất nền móng xây dựng "Nhánước pháp quyền" ở Việt
Hồ Chí Minh không lẫn lộn mục tiêu cụ thể và trực tiếp của từng chặngvới cái đích lý tưởng ở phía chân trờiđể tránh đi những ảo tưởng duy ý chí, dẫn đến hành động nôn nóng "đốt cháy giai đoạn", gây hậu quả ngược lại với mục tiêu Hồ Chí Minh “có sự dị ứngbẩm sinh với bệnh giáo điều, rập khuôn, bệnh công thức sáo mòn",Người đòi hỏi khôngđược sao chép nguyên văn nhữnggì có sẵn, điều cốt yếulà hiểu đúng tinh thần và biết vận dụng các nguyênlý sát với tình hình cụ thể"nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
2.
Bằng chứng là, mãi gần 60 năm sau Tuyên ngôn Độc lập và Tổng tuyển cứ
3. Mở đầu cho Tuyên ngôn Độc lập ngày
Từ tầm cao trí tuệ của thời đại, ngay từnhũng ngày đầu tiên của nền độc lập vừa giành lại được,
Bằng việc thực thi quyền dân chủ trực tiếp trong cuộc phổ thông đầu phiếu bầu ra Quốc hội năm 1946, dân ta đã chứng minh với thế giới rằng, một dân tộc vừa thoát khỏi vòng nô lệ trăm năm thực dân thuộc địa, khi đã vùng lên dưới ngọn cờ của Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã vững bước trên hành trình dân chủ. Vậy thì, cơ sở xã hội của Nhà nước
Là dân tộc.
Là một nhà cách mạng từng trải đã hiểu rõ về phong trào cách mạng vớisứ mệnh cao cả cũng như những khó khăn của tiến trình thực hiện sứ mệnh ấy, Hồ Chí Minh h biết được phải làm gì với một dân tộc vừa thoát ách nô lệ và gần một trăm năm bị xóa tên trên bản đồ thế giới. Là một nhà văn hóa, Hồ Chí Minh thấm nhuần những tinh hoa của văn hóa loài người, kết tinh ởnhững đỉnh cao trí tuệ tiêu biểu cho trình độ văn minh mà con người đạt được vào những thời điểm lịch sử nhất định, để biết vận dụng một cách thích hợp và sáng tạo vào thực tế nước mình. Hiến pháp 1946 do
Ở đây thể hiện rõ những yếu tố pháp quyềnnổi lên trên nguyên tắc quyền lực và tổ chức quyền lực.Trong nội dung của Hiến pháp, nét nổi bật làm việc kiểm soát quyền lực Nhà nước chứa đựng tinh thần khoan dungcủa truyền thống Việt
Ở một đất nước mà Nhà nước xuất hiện từ rất sớm và mang nặng “truyền thống" quan liêu, Hồ Chí Minh đã đòi hởi xây dựng một "Nhà nước đầy tớ của dân",điều mà nhiều nhà tưtưởng lớn của loài người đã từng ấp ủ và cũng đã được nhấn mạnh trong học thuyết của C. Mác. Nhưng, vấn đề là
Có thể nói, cơ cấu tổ chức quyền lực Nhà nướcđược thể hiện trong Hiến pháp 1946 đã đặt nền móng cho một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân,trong đó các quyển tự do, bình đẳngvề chính trị và xã hội củangười công dânđược công nhận và được bảo đảm bằng luật pháp. Hiến pháp năm 1946 thể hiện rất tập trung tư duy của
Khi Đại hội X của Đảng, phát triển những thành tựu của nhận thức về Nhà nước của các Đại hội
Phải bằng một chặng đường hơn nửa thế kỷ, tư duy về Nhà nước pháp quyền mới được chính thức trở thành tư tưởng chỉ đạo trong việc xây dựng Nhà nước. Hành trình gian chuân của hơn nửa thế kỷ xây dựng một Nhà nước thật sự là Nhà nước của dânk do dân và vì dân như
Thế nhưng sự vận động của lịch sử đã chứng minh, cuộc sống sẽ tự mở lấy đường đi cho nóbất chấp mọi trở lực. Đó là quy luật không sao đảo ngược được.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu MaiToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường