Thuyết Oan Thân Trái Chủ của Tịnh Không Pháp sư
Trong tiếng Việt, “Pháp sư” thường được hiểu tương tự “thầy pháp”, nhưng thật ra trong Phật giáo, đây là danh từ dịch từ tiếng Phạn “dharma-bhāṇaka”, dùng gọi bậc cao tăng có khả năng diễn giảng kinh Phật. Tịnh Không là nhà sư Đài Loan, chuyên nghề thuyết pháp, nên được đệ tử tôn xưng Pháp sư.
Tịnh Không 淨空 tinh thông Phật pháp, mặc tình tự tác, dùng tài hùng biện xuyên tạc giáo lý nhà Phật. Một trong những thuyết độc đáo của pháp sư là “oan thân trái chủ”, giúp nâng tầm vóc ngài lên ngang hàng Đạo sư, để ngang nhiên làm cả các công việc của thầy cúng, và không chỉ thao túng dương gian, sư còn đủ thẩm quyền can thiệp cả âm giới.
THUYẾT “OAN THÂN TRÁI CHỦ” 怨親債主 CỦA TỊNH KHÔNG[1]
Theo Tịnh Không, Phật từng nhiều lần công nhận có oan thân (hoặc oan gia) trái chủ. Như trong “Ngũ khổ chương cú kinh”[2], Phật dạy: “Cha con, vợ chồng, anh em trong nhà, bạn bè, đầy tớ đều có năm nhân duyên: 1 là oan gia, 2 là trái chủ, 3 là mắc nợ, 4 là nguyện cũ, 5 là thân thiết”. Trong bộ “Đại hoán đính thần chú kinh”[3], Quyển 1 và Quyển 12 có dạy cách hóa giải oan thân trái chủ. “Đại bảo tích kinh”[4], Quyển 14 ghi: “mọi tiền của đều không phải phước báu thực sự, mà đều là hạt giống ác của nước lửa trộm cắp, oan thân trái chủ”[5].
Ở đây, Tịnh Không cố tình không chú trọng thực nghĩa những chỗ trích dẫn trên: toàn bộ những chỗ nhắc tới oan gia trái chủ trong các kinh đó, đều là xét về các mối quan hệ thân thuộc của những người đang cùng sống trong một gia đình. Hiểu theo nghĩa phổ biến, “oan gia” là kẻ thù, “trái chủ” là chủ nợ; ta mắc nợ nhau nên mới phải chung sống với nhau. Chính theo nghĩa đó, các đôi tình nhân Trung Hoa thường âu yếm gọi nhau “oan gia”, như trong “Tây sương ký” 西廂記, Chương 4, Trương Quân Thụy lén nhìn Thôi Oanh Oanh, thầm than: “Vọng đắc nhân nhãn dục xuyên, đa quản thị oan gia bất tự tại” 望得人眼欲穿, 多管是冤家不自在 (Ngóng trông người muốn mòn con mắt, Lòng oan gia chắc cũng bồn chồn)[6]. Nhưng Tịnh Không đã triển thần thông, biến oan thân trái chủ thành khái niệm chỉ hiện tượng “vong nhập”.
Hãy nghe Tịnh Không định nghĩa: “Oan” 冤, còn gọi là “oán” 怨, nghĩa là lòng oán hận, phần lớn do các kiếp trước làm tổn hại người gây nên thù hận; trái chủ là chủ nợ, do nhiều kiếp trước mình vay nợ người không trả, khiến kiếp này phải thành quyến thuộc. Nhưng đó chỉ là hiểu theo nghĩa hẹp, oan thân trái chủ có nghĩa rộng hơn nhiều, bao gồm nhiều hiềm khích oán hờn tích tụ từ vô lượng kiếp, oán khí chủ nợ ùa về hóa thành ma quỷ nhập vào thân ta để đòi nợ.
Vẫn theo lời pháp sư: Đừng tưởng Phật không tin có vong hồn tồn tại. Kinh Lăng Nghiêm từng nói có 50 âm ma nhập vào người ta[7]. “Quán tự tại Bồ tát tùy tâm chú kinh” cũng nói có “95 loại ma và quỷ thần nhập vào trong thân người, hoặc nhiếp tâm thần của người, chẳng cho niệm Phật tụng kinh; khiến người vui nói không đâu, khiến người cống cao ngã mạn, khen mình chê người; lúc bàn luận nghĩa lý chỉ tìm điều hơn người, muốn được lợi dưỡng và muốn được làm thầy của người, làm pháp chủ, khinh mạn kinh tượng; tham, sân, ngu si, nằm nhiều, ngủ nhiều hoặc vui, hoặc giận thất thường”[8]. Qua đó sư khẳng định Phật từng công nhận hiện tượng vong nhập.
Theo đà đó, Tịnh Không hù dọa tín chủ: Oan gia trái chủ có thể ngăn trở, phá hoại gia cang sự nghiệp, thậm chí làm chết người. Khi phúc báu con nợ còn dày, vong linh tạm thời chưa làm gì được; một khi phúc báu đã cạn, vong linh lập tức nhập vô đòi mạng.
Về nguồn gốc oan gia trái chủ, Tịnh Không giảng rằng có 4 loại: do tự mình vay nợ; do thụ dụng tài vật của người nhưng trở mặt phản bội lại họ; do cướp đoạt của người; hoặc do những khoản nợ lớn nhỏ khác (mọi nợ nần này đều là gây nên từ nhiều kiếp trước, chẳng cách nào kiểm chứng được, chỉ có thể nghe lời thầy giảng mà biết).
Về phương pháp giải quyết các khoản nợ không đâu từ nhiều kiếp kia, tín chủ phải thành tâm tuân theo chỉ dẫn của Tịnh Không:
- Thỉnh chư tăng tụng kinh siêu độ (như kinh Vu lan, Địa tạng) để tạo phúc cho vong linh được yên lòng đầu thai chuyển kiếp, không theo ám mình nữa.
- Làm việc phước thiện để chuộc lại lỗi lầm đã phạm từ nhiều kiếp.
- Cúng lễ cho vong linh.
- Niệm chú (do Tịnh Không bí truyền) siêu độ cho vong linh.
- Phải cúng dường bằng tài vật tương xứng để yên ủi vong linh.
Tín chủ cần tâm niệm là: việc hóa giải nợ nần này là cuộc hiệp thương giữa chủ nợ và con nợ, chư Phật và Bồ tát (cũng như Tịnh Không pháp sư), chỉ đóng vai trò trung gian hòa giải, chẳng hề xơ múi gì. Sau khi thỏa thuận xong xuôi, đôi bên sẽ lập khế ước: con nợ bồi hoàn một khoản tiền, chủ nợ dứt khoát rời đi, không quấy phá người ta nữa.
.
Điều quan trọng là tuy Tịnh Không tự nhận mình chỉ đóng vai trọng tài, nhưng thực ra pháp sư lại đại diện cho vong linh để đàm phán với tín chủ, qua đó ông kể vanh vách những món nợ từ nhiều kiếp, chứng tỏ thầy đã tu luyện đạt “Túc mệnh thông”, có thể biết được nhiều kiếp quá khứ vị lai.
Bậc trí huệ có năng lực dường ấy hẳn là kẻ phi phàm, vậy Tịnh Không pháp sư là ai?
LÝ LỊCH VÀ THÀNH TÍCH CỦA TỊNH KHÔNG
Tịnh Không tên thật Từ Nghiệp Hồng 徐業鴻, sinh năm 1927, tại huyện Lư Giang, tỉnh Chiết Giang.
Người này lý lịch lắt léo. Năm 1947, Hồng tham gia Quốc dân đảng. Năm 1949, được điều tới Đài Loan, phục vụ trong Thực Tiễn học xã 實踐學社. Tiếng là học xã, tức cơ quan giáo dục, nhưng thật ra đây là tổ chức gián điệp quốc tế trá hình, do đoàn cố vấn quân phiệt Nhật thành lập. Tới năm 1959 thì Hồng xuất gia, tại Đài Bắc.
Từ thập kỷ 80 thế kỷ trước, nhà sư Tịnh Không bắt đầu nổi tiếng với các hoạt động chống Cộng ở Đài Loan, Malaysia, Hong Kong. Vì tư tưởng cực đoan, lại thêm xuyên tạc Phật pháp gạt người, sư dần bị xa lánh.
Từ năm 1984, pháp sư định cư ở Mỹ, bắt đầu truyền bá tư tưởng kỳ khôi của mình ra Âu Mỹ. Công việc không phát triển được như ý muốn, nên từ năm 2001, Tịnh Không chuyển hướng, sang hoạt động khu vực Đông Nam Á. Năm 2003, sư đổi quốc tịch Australia.
Hiện thời, tuy đã 92 tuổi, sư vẫn khang kiện minh mẫn, thuyết pháp đều đều; và tổng cộng đã thành lập khoảng 150 hiệp hội, chuyên nghiên cứu Phật pháp theo đường lối Tịnh Không, ở các nước Đông Nam Á.
Tịnh Không vốn xuất thân Tịnh Độ tông, tông phái chủ trương tín tâm niệm Phật A Đi Đà. Nhưng pháp sư tiến xa hơn, phản lại toàn bộ giáo lý nhà Phật, thậm chí xuyên tạc Phật pháp, để hù dọa khủng bố tinh thần tín đồ. Các bài giảng của sư luôn nhắc tới thời kỳ mạt pháp với ma quỷ tràn lan trong cõi người.
Từ thập kỷ 90 thế kỷ trước, Tịnh Không bắt đầu thâm nhập đại lục. Bằng cách đút lót mua chuộc các quan chức Trung cộng, sư thành lập được hơn 30 hiệp hội trên các tỉnh thành Trung quốc.
Sư cho in ấn xuất bản các tài liệu giảng về oan gia trái chủ, đem phát khắp nơi kèm với quà từ thiện, để lấy lòng dân chúng. Cạnh đó, sư còn tìm cách len lách vào hệ thống để thao túng Phật giáo quốc doanh Trung cộng. Chỉ tính từ năm 1989 tới 1995, hiệp hội của Tịnh Không đã chi cho các tự viện lớn trên toàn Trung quốc khoản tiền hơn chục triệu đô-la. Ngoài ra, sư còn hào phóng cấp học bổng cho sinh viên các đại học Bắc Kinh, Phúc Đán, Liêu Ninh, Nam Kinh sang du học các “Tịnh Không học viện” ở Australia, Singapore. Tính từ 1990 tới 2004, đã có hơn 3.500 sinh viên xuất dương du học theo chương trình học bổng của Tịnh Không học viện.
Có qua thì có lại, các dự án quy mô của Tịnh Không luôn được phê duyệt nhanh chóng, với những ưu đãi bất thường. Cụ thể, năm 2004, Tịnh Không xây dựng Trung tâm Văn hóa Giáo dục Lư Giang tại cố hương của sư, dự án trị giá 14.800.000 Mỹ kim, được phê duyệt 83ha, do nhà cầm quyền địa phương đích thân cưỡng chế mặt bằng.
Tung hoành đại lục suốt 20 năm, danh vang pháp sư lừng lẫy thế giới, Tịnh Không tha hồ thuyết giảng tà đạo mà không ai dám động tới, vì sau lưng sư là những ô dù cấp Trung ương[9].
Bề ngoài tuy rao giảng trục vong linh miễn phí, nhưng bên trong là những hợp đồng giữa tín chủ với vong linh, giá chót cũng chục ngàn đô-la. Nên chùa viện của Tịnh Không xây cất tới đâu, tín đồ tan cửa nát nhà, điên điên khùng khùng tới đó. Sư ngày càng lộng hành quá quắt, khiến dân oan đâm đơn khiếu kiện khắp nơi. Cuối cùng, tháng 12-2008, chính quyền Trung cộng đã thu hồi Chứng nhận tạm cư Trung quốc của Tịnh Không, toàn bộ hoạt động của các hiệp hội do Tịnh Không thành lập buộc phải đóng cửa để điều tra. Sau đó, hầu hết đều bị quốc hữu hóa.
Từ đó, tuy vẫn còn các hiệp hội Tịnh Không khác ở Đông Nam Á và Australia, nhưng mất đi mảnh đất màu mỡ Trung quốc, chúng chỉ còn hoạt động thoi thóp.
_________
[1]Các lời giảng của Tịnh Không trong phần này là trích từ trang blog Miaoyin (秒音 – Diệu âm):
http://blog.sina.com.cn/puremind
[2]Kinh “Ngũ khổ chương cú” 五苦章句經, do Trúc Đàm Vô Lan 竺曇無蘭 (Dharmaraksla), người Tây Vực, sống vào thời Đông Tấn (317~420) dịch ra Hán ngữ. Ở ta, hiện chỉ có bản Việt ngữ dịch lại từ bản chữ Hán của Vô Lan, có thể đọc ở đây:
https://tangthuphathoc.net/kinh-ngu-kho-chuong-cu/
[3]“Đại hoán đính thần chú kinh” 大灌頂神咒經, còn gọi “Kinh Hoán đính”, giảng về tam quy ngũ giới, do Bạch Thi Lê Mật Đa La 帛屍梨蜜多羅 (Po-Śrīmitra), người Tây Vực, sống vào thời Đông Tấn, dịch ra Hán ngữ. Bộ kinh lớn này gồm 12 kinh nhỏ hợp thành, trong đó không chỉ ảnh hưởng lớn bởi tư tưởng Đạo giáo, còn mang đậm vết tích tín ngưỡng dân gian thời Lục triều (222-589), nên bị đa số học giả cho là ngụy tác. Hiện chưa có bản dịch Việt ngữ. Bản Hán ngữ ở đây:
http://buddhism.lib.ntu.edu.tw/…/chi_p…/sutra10/T21n1331.pdf
[4] “Đại bảo tích kinh” 大寶積經 (Mahā ratnakūṭa sūtra), do Bồ Đề Lưu Chi 菩提流志 (Bodhiruci), người Nam Thiên Trúc (tức Ấn Độ), dịch ra Hán ngữ vào thời Võ Tắc Thiên (624-705). Là một trong năm bộ kinh có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo Trung Hoa. Bản Việt dịch từ Hán văn của Thích Trí Tịnh ở đây:
https://hoavouu.com/a26252/kinh-dai-bao-tich
[5] Trích dẫn theo lối tầm chương trích cú, vậy mà từ kho tàng Phật kinh đồ sộ chỉ trưng ra được vài ba chỗ, chứng tỏ Tịnh Không lười biếng lắm. Người gõ bài chỉ mới tra Google thôi, trong vòng 10 phút, cũng ra được 12 chỗ kinh Phật nhắc tới “oan thân (oan gia) trái chủ”.
[6] Người Việt cũng hay nói “con là nợ, vợ là oan gia”.
[7] Lăng nghiêm kinh 楞嚴經 (Śūraṃgama-sūtra), Quyển 9 - “Ngũ thập âm ma”, là giảng về các trạng thái tâm lý của hành giả khi tu tập, đã bị Tịnh Không hô biến thành vong nhập.
Có thể đọc chỗ nói về 50 âm ma này trong Lăng nghiêm: https://thienphatgiao.wordpress.com/…/nam-muoi-hien-tuong-…/
[8] Quán tự tại Bồ tát tùy tâm chú kinh 觀自在菩薩隨心咒經, gọi tắt “Đa lỵ Tâm kinh” 多唎心經. Do Thích Trí Thông đời Đường dịch ra Hán ngữ. Quyển kinh này thuộc Mật tông, dạy các cách bắt ấn niệm chú, nghi là ngụy kinh. Đoạn trích trên thuộc Chú thứ 50 (Tổng nhiếp ấn chú). Xem thêm:
https://tangthuphathoc.net/kinh-quan-tu-tai-tuy-tam-chu/
[9] Tịnh Không có cả bài thuyết pháp ca tụng Tập Cận Bình là Bồ tát hóa thân cứu độ thế gian, nhưng clip này trên mạng Weibo đã bị xóa bỏ, nay tìm không ra nữa.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiBệnh sùng bái thần tượng và sự rối loạn của giáo dục
05/04/2019Hư học hư làm, hư tài
16/04/2014Tôi sợ nhất là cái "văn hoá" phi văn hoá, phản văn hoá
29/04/2018Phan Thắng (thực hiện)Có khi bi quan khi nhìn vào thực trạng văn hóa
12/04/2016Hồng Thanh Quang (thực hiện)7 nguyên tắc sống bất di bất dịch của Đại bàng
24/12/2015