Thế kỷ XX: Từ chủ nghĩa hiện đại đến “chủ nghĩa cổ điển mới”
Thế kỉ XX, có sự thâm nhập vào lĩnh vực phê bình văn học (và nghiên cứu văn học) nhiều quan niệm lý thuyết, nhiều thủ pháp của những bộ môn ngoài văn học (triết học, mĩ học và nhiều ngành khoa học khác: xã hội học của Mác, hiện tượng luận của Husserl, những mô hình tâm lý học của S.Freud, C.Jung, cấu trúc luận ngôn ngữ học và nhân học của F. de Chaussure, Lévi Strauss...). Từ đó xuất hiện nhiều điển mẫu (paradigme), mô thức (modèle) về văn học.
Trong hoàn cảnh không có một lý thuyết, một điển mẫu có vai trò ngự trị, những quan niệm về điển mẫu rất khác nhau mới và cũ, truyền thống và hiện đại tồn tại bên nhau, dĩ nhiên là không êm ấm, người theo quan điểm này thường nguyền rủa những quan điểm khác, gây ấn tượng tình trạng hỗn loạn khiến người ta nghĩ đến một cuộc khủng hoảng về lý luận, phương pháp. Tuy vậy, trong tình trạng hỗn loạn và khủng hoảng như vậy, vẫn xuất hiện những công trình phê bình văn học xuất sắc... Điều này thực ra chẳng có gì là khó hiểu. Những tác giả phê bình ưu tú, họ thừa hiểu rằng làm phê bình văn học chẳng qua chỉ là "sự thi thố những nhạy cảm, tinh thông riêng, những suy tưởng đạo đức, văn hoá riêng của họ". Đó là sự thi thố những năng lực văn hoá của họ, sự phát huy cái có thể gọi là cái "căn bản văn hoá" riêng của họ. Những người cứ phải bám riết lấy những câu chữ "lý luận" và "phương pháp luận" thường là những người theo đuổi những mục tiêu ngoài văn học (triết học, chính trị, tôn giáo...) hoặc căn bản văn hoá yếu. Dĩ nhiên, ngoài cơ sở lý luận và căn bản vãn hoá, năng lực trực giác không thể thiếu được ở nhà phê bình. Ở phê bình văn học của những nhà thơ trường phái Suy đồi (Décadence, cuối thế kỉ XIX ở phương Tây) năng lực này có một sự nhạy cảm và tinh tế phi thường và từ đó nó đặc biệt sáng giá. Thời gian gần đây, phê bình của Thuỵ Khả khởi sắc, văn phê bình cũng như ứng khẩu bình phẩm nghệ thuật của anh lấp lánh nhạy cảm và tinh tế của Suy đồi.
Trước sự thất bại của một số (cũng đông đông đấy) người viết phê bình trong việc vận dụng các thứ lý luận vào phê bình văn học (vận dụng sống sượng, máy móc, hời hợt...), rất cần bàn xem: học tập lý luận văn học như thế nào thì có ích cho phê bình văn học ? Trả lời câu hỏi này luận điểm chính của tôi là: “Lý luận biến thành văn hoá mới thực sự có ích cho phê bình". Trong luận điểm này, tôi hiểu văn hoá với nghĩa của từ culture géllérale của người Pháp, nó là vốn / trình độ ở mỗi người, nó là sự tích hợp mọi lĩnh vực tri thức và các loại tri thức: tri thức lý thuyết và tri thức thực chứng, tri thức lý luận (như lý luận văn học chẳng hạn) và tri thức lịch sử (như lịch sử văn học chẳng hạn), tri thức sách vở và tri thức kinh nghiệm… cả những tín niệm, các loại “gu” (gout), các phép tắc ứng xử đều được tích hợp trong văn hoá. Chúng ta đều thấy tác hại của lý luận "chay”, lý luận "sống sượng", lý luận "ăn sống nuốt tươi"... trong nghiên cứu văn học. Tôi đặt yêu cầu rất cao cho việc học tập lý luận của người nghiên cứu, phê bình văn học: lý luận phải biến thành văn hoá, với ý nghĩa là lý luận phải được tiêu hoá, được tích hợp vào “văn hóa”, tức là vào culture générale. Lý luận được tích hợp vào “văn hóa” thì mới được sự bổ sung, sự hỗ trợ của những loại tri thức khác, thì mới vượt siêu để trở thành một năng lực trí tuệ mới linh hoạt và sáng tạo. Nhà phê bình viết phê bình bằng toàn bộ tiềm lực culture générale của mình. Ngay trong trường hợp có sự theo đuổi một lý thuyết văn học thì cảm hứng phê bình thực sự vẫn huy động toàn bộ tiềm lực văn hoá của người viết. Đối với nhà lý luận văn học, lý thuyết "chay" có khi cũng cần thiết. Nhưng đối với nhà phê bình, điều đáng quan tâm ở lý thuyết văn học là tiềm lực phương pháp luận của nó. Và hiệu quả phương pháp luận của lý thuyết văn học phụ thuộc vào chỗ hoá nào đã được tích hợp như thế nào vào vốn/ trình độ văn hóa nào.
Khi tôi viết: "Hoài Thanh nhả ra những ý kiến riêng..." tôi muốn tạo một sự liên tưởng tới việc con tằm nhả tơ. Với những người thực sự viết phê bình, các lý thuyết và tri thức' khác chỉ là lá dâu và họ ý thức được rằng công chúng chờ đợi họ nhả ra tơ. Trong không ít bài phê bình, "tơ" quá ít, còn lổn nhổn những cọng và cuống "lý thuyết" chưa tiêu hoá.
Trong việc nâng cao trình độ và năng lực giới phê bình trẻ, vấn đề đáng quan tâm là mối quan hệ giữa cơ sở lý luận và căn bản văn hoá trong năng lực nghiên cứu, phê bình, giữa việc học tập lý luận văn học và việc trau dồi căn bản văn hoá trong quá trình tự đào tạo của người viết phê bình. Về mối quan hệ này, tôi dành ưu tiên cho "trình độ văn hoá" và "trau dồi cần bản văn hoá". Tôi coi trọng căn bản văn hoá hơn cơ sở lý luận vì mấy lẽ. Sự tiếp thu lý thuyết phụ thuộc vào trình độ văn hoá : học sinh tú tài có thể tiếp thu được lý thuyết văn học của Hyppolie Taine (thế kỉ XIX), nhưng phải có trình độ sau đại học thì mới hiểu được giải kết cấu (déconstruction) của Derrida, đặc biệt những thập kỉ cuối của thế kỉ XX xuất hiện những lý thuyết văn học ngày càng khó. Sự vận dụng lý thuyết văn học vào phê bình cũng phụ thuộc vào căn bản văn hoá. Học vấn càng vững chắc, sâu rộng, cao thì sự vận dụng lý thuyết càng linh hoạt, sáng tạo. Lý thuyết (trường phái) thường dẫn đến sự cực đoan. Nhưng nếu như người đam mê lý thuyết (trường phái) có trình độ và căn bản văn hoá vững vàng thì ở anh ta ngay sự cực đoan cũng có "gu” và trong học thuật, nghệ thuật cực đoan có "gu” có thể chấp nhận được: Và, như đã nói ở trên, lý luận phải được tích hợp vào văn hoá thì mới vượt siêu thành phương pháp sáng tạo. Ngoài ra, do chương trình phổ thông cũng như chương trình đại học, học tập trong những hoàn cảnh không bình thường, trong căn bản văn hoá của không ít những người tốt nghiệp Đại học có những sự "hụt hẫng kiến văn" và đôi khi những lỗ hổng nghiêm trọng.
Ở ta, những năm gần đây, có nhiều công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hậu hiện đại. Thực ra, để hiểu lý luận văn học, lý thuyết văn hoá phương Tây thế kỉ XX cần bắt đầu bằng việc nghiên cứu chủ nghĩa hiện đại, một trào lưu văn hoá, nghệ thuật rộng lớn coi như xuất hiện từ cuối thế kỉ XIX, phát triển ào ạt, mạnh mẽ trong vài ba thập kỉ đầu thế kỉ XX, đến những năm 30 thì bắt đầu suy kiệt. Tiếng vậy, từ đó đến nay, trong suốt thế kỉ XX phương Tây vẫn tiêu dùng vốn trí tuệ của chủ nghĩa hiện đại. Trào lưu này bao gồm nhiều khuynh hướng và trường phái văn học nghệ thuật lớn: Tượng trưng, ấn tượng, Suy đồi, Lập thể, Vị lai, Kiến tạo (constructivisme), Biểu hiện, Đa đa, Siêu thực... Đánh giá như thế nào đây những thành tựu cách tân những trường phái lừng lẫy nói trên của chủ nghĩa hiện đại?
Trước tiên chúng tôi căn cứ vào một ý kiến của nhà thơ Pháp, Paul Valéry (1871 - 1945): "… tất cả những sự cách tân này cần thiết cho sau đó một chủ nghĩa cổ điển mới có thể xuất hiện...". Valéry là một thi tài lớn được hình thành từ câu lạc bộ của nhà thơ tượng trưng Mallarmé (đồng thời cũng là một trí tuệ lớn của nước Pháp, ông đã từng giảng bài ở Collège de France), ông là chủ soái của trường phái "thơ trí tuệ", chủ trương cụ thể hoá những tư tưởng trừu tượng bằng hình ảnh và tiết tấu tinh tế. ông không từ bỏ những cách tân của chủ nghĩa hiện đại, ông thấy chúng là "cần thiết”. Tuy nhiên, ông tỏ ra dè dặt về tiền đồ của chủ nghĩa hiện đại. Hướng về tương lai, ông nhìn thấy (hoặc thuốn nhìn thấy) một xu hướng phát triển nghệ thuật khác, một viễn cảnh hoàn toàn khác mà ông đặt tên là "chủ nghĩa cổ điển mới". Wallace Stevens (1879 - 1955), một trong những tác giả hàng đầu của thơ ca Mỹ và thế giới còn tỏ ra dè dặt hơn nhiều trong sự đánh giá chủ nghĩa hiện đại: "Chúng ta không nên tiêu phí thì giờ để làm hiện đại, còn bao nhiêu việc quan trọng hơn chúng ta phải làm". Nhà văn Arhentina, J.L.Borges (1899 - 1986) là một tác giả lỗi lạc của văn học Mỹ Latinh và văn học thế giới. Thăng trầm của những trào lưu nghệ thuật cách tân giống như thuỷ triều lên xuống, thời trẻ, sống giữa những đợt sóng chủ nghĩa hiện đại, Borges khó mà thoát ra ảnh hưởng của chúng. Văn nghiệp của ông bắt đầu bằng những thể nghiệm táo bạo theo tinh thần tiên phong của chủ nghĩa biểu hiện. Một điều khá bất ngờ là cuối cùng, Borges đâm ra chán và thất vọng với những mới mẻ về nội dung, những cách tân về nghệ thuật của những nhà thơ, nhà văn ít nhiều có họ hàng với chủ nghĩa hiện đại mà ông đã từng ngưỡng mộ thời trẻ. Ông vốn là một người hâm mộ Baudelaire, người báo trước chủ nghĩa hiện đại trong thơ, tập thơ Ác hoa (Les Fleurs du Mal) ông có thể trích dẫn liên hồi vô tận. Đối với tập ác hoa, đến lúc ông thoát ra được, giữ được khoảng cách thì ông thấy tác phẩm này làm ông khó chịu, có cái gì đó không ổn về mặt đạo đức, tác giả quá ưu tư đến thân phận cá nhân của mình, quá quan tâm đến những hạnh phúc và bất hạnh riêng của mình. Mà muốn sống thanh thản thì tốt nhất là phiên phiến, nghĩ ngợi càng ít càng tốt những gì xảy đến với cuộc đời cá nhân mình. Đọc Ác hoa, độc giả dễ bắt chước nhân vật trữ tình của tập thơ, tự xem mình là một nhân vật thống thiết, phẫn thán (personnage pathétique). Mà "sống trên đời này tốt nhất là đóng vai nhân vật phụ (ý của Pythagore), làm nhân vật thống thiết thì mệt lắm". Có thời Borges tưởng rằng Dostoievsky là tiểu thuyết gia độc nhất vô song và ông đã đọc đi đọc lại nhiều lần Tội ác và trừng phạt và Những người bị quỷ ám. Chúng ta đều biết cách tân nổi tiếng của Dostoievsky là đưa đa thanh vào tiểu thuyết, một thủ pháp đặc sắc của văn xuôi chủ nghĩa hiện đại. Borges đã từng đánh giá cao những cách tân của Proust, Faulkner trong văn xuôi, phong cách "dòng ý thức" và những thủ thuật tự sự mới mẻ của họ... Nhưng theo ông, "dần dà thì những thủ thuật này người ta cũng chán và chúng ta sẽ quay trở về với cách kể chuyện thông thường trong Đôn Kihôtê (El Ingenioss hidalgo Don Quijote de la Mancha): "Trong một ngôi làng bên bờ biển Manche mà tôi không muốn gợi nhớ lại tên...". Quay trở về cách kể chuyện thông thường trong Đôn Kihôtê tức là quay trở về cách tự sự cổ điển, quay trở về chủ nghĩa cổ điển. Kinh nghiệm chủ nghĩa hiện đại của Borges là một bài học lớn về sự tiếp nhận nghệ thuật cách tân: nên có sự thông cảm với sự cuồng nhiệt điên rồ của những "fan" hâm mộ nghệ thuật cách tân, đồng thời cũng phải thấy rằng thủ pháp nghệ thuật cách tân dầu có độc sáng, tinh khôi đến đâu cũng không xoá bỏ được những thủ pháp nghệ thuật cổ điển.
Wallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ tiên phong của chủ nghĩa hiện đại những thập kỉ đầu thế kỉ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa "đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng" và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà. Nhà văn Đức, Herman Hesse sau một thời gian đám đuối với chủ nghĩa tượng trưng, với phân tâm học, với chủ nghĩa thần bí phương Đông, qua truyện ngụ ngôn Sói thảo nguyên, cũng nói đến tình cảm "nhớ nhà": "Chúng ta còn vấp ngã lặn lội qua bao rác rưởi và xảo trá trước khi về đến nhà. Và chúng ta chẳng có ai dẫn đường. Người duy nhất hướng dẫn chúng ta là nỗi nhớ nhà" phải chăng "nhà" ở đây là chủ nghĩa cổ điển, "không phải như là một sở hữu chuyên biệt của Châu Âu mà như là một hằng số của văn học, nghệ thuật nhân loại, "một phép lạ đã từng xảy ra nhiều lần khắp thế giới trong những xã hội muôn vẻ”.
Cái “chủ nghĩa cổ điển mới” mà Pau Valéry ước vọng như một viễn cảnh cho sự phát triển của nghệ thuật trong tương lai, một viễn cảnh để tích hợp những thủ pháp cách tân sáng giá của chủ nghĩa hiện đại thì ngày nay đã trở thành một trào lưu văn học nghệ thuật đương phát triển mạnh mẽ ở Mỹ. Trào lưu thực tại này có "những đại diện kiệt xuất của toàn thể phong trào”, “hội tụ những phát triển song song trong kiến trúc, âm nhạc, điêu khắc, thi ca, quy hoạch đô thị...", nó thâm nhập vào giới hàn lâm, đặc biệt trong những lớp viết văn, nó có những Tạp chí, những trạm trên mạng, những quán cà phê cổ điển mới cho toàn cầu, "nơi đó các hoạ sĩ đủ loại có thể tìm ra nhau... tranh luận, hợp tác, và chuẩn bị triển lãm, hội thảo và trình diễn", “nó có những khách sảnh cho công chúng có thể tới để tìm những gì là tinh hoa nhất trong các tác phẩm mới...". Trong khi cảnh tượng nghệ thuật đương đại đầy rẫy những "cái xấu”, cái hỗn mang về “đạo đức" cái "ngu ngốc trí tuệ tội nghiệp" thì toàn phong trào chủ nghĩa cổ điển mới là "nỗi mong muốn quay trở về với lý tưởng của cái đẹp", cái đẹp không tách rời cái đẹp đạo đức và cái đẹp trí tuệ. “Cái đẹp không chỉ là một khía cạnh được lựa chọn của nghệ thuật : nó là một đối tượng, một ý hướng của nghệ thuật", "cái đẹp không chỉ thuần là một quy ước, mà cái đẹp là một khả năng và một nhu cầu cơ bản của con người".
Tóm lại, về nội dung, chủ chốt của chủ nghĩa cổ điển mới là "sự tôn trọng các giá trị tâm linh và nhân bản vĩnh hằng như chân, mĩ, thiện và đề ra sự phục hoạt cho cả loài người sau năm thế kỉ thống trị của phương Tây" , hình thức nghệ thuật, đó là sự vận dụng tốt những thủ pháp cách tân, kết hợp sự mới mẻ với sự giản dị và sự chín chắn, không đối lập "truyền thông đích thực” với "độc sáng đích thực" mà xem chúng là "điều kiện tiên quyết" của nhau (trong đoạn này và đoạn trên, những cụm từ và những câu đặt trong vòng kép được trích dẫn từ FT).
Trào lưu chủ nghĩa cổ điển mới có những nhà lý luận của nó mà Frederich Turner là một đại diện kiệt xuất, bản Tuyên ngôn ông viết năm 1995 gồm bảy điểm:
1. Tái hợp nghệ sĩ với công chúng
2. Tái hợp cái đẹp với đạo đức
3. Tái hợp nghệ thuật cấp cao với nghệ thuật cấp thấp
4. Tái hợp nghệ thuật với tay nghề
5. Tái hợp nhiệt tình và trí tuệ
6. Tái hợp nghệ thuật với khoa học
7. Tái hợp quá khứ với tương lai.
Trào lưu này chẳng những có liên quan với "những thay đổi sâu xa về chính trị trên cảnh tượng quốc tế cùng với sự tái suy nghĩ lớn lao đương đại về kinh tế học và triết học xã hội", nó còn "đi song hành với những phát triển trong ngành khoa học tự nhiên và nhân văn, đặc biệt trong những mô hình mới về não bộ và tâm trí, và trong lý thuyết về hỗn mang, tức khoa học về những tiến trình động lực học phi tuyến tính và những tụ điểm hấp dẫn dị kì của chúng".
Để định nghĩa thi pháp của chủ nghĩa cổ điển mới, F.Turner đưa ra bảy quan niệm. Tôi giới thiệu ba quan niệm đầu để độc giả hình dung được lý luận văn học (đúng hơn là lý luận văn hoá) làm cơ sở cho thi pháp của ông.
1) "Thi pháp này sẽ kinh nghiệm văn học trong ngôi nhà của một thế giới của tỉ lệ, không gian, và số lượng. Nó sẽ tái kết với toán học, số học, luận lý, lý thuyết số và hình học. Có một khởi đầu hứa hẹn cho điều này trong cấu trúc luận (bị "sảy thai" vì hậu cấu trúc luận) , nhưng chúng ta phải tìm cả cội rễ trong lý thuyết của quá khứ về tu từ, phong thuỷ, thuật số, hoạ pháp tiếu tượng (iconography) và kí ức học (mnemonics). Các nhà phê bình văn học phải đọc được Benoit Mandelbrot (người khởi xướng khoa hình học phiến điệp, tức fractal geometry). Có những lý thuyết toán học mới về vị tướng học (topology) của vũ trụ, chúng mô tả vũ trụ như một khối siêu cầu kép (a double super-sphere) nghĩa là một khối cầu với hai trung tâm mà mỗi trung tâm lại là chu vi ngoại diên của trung tâm kia. Những nhà toán học Istvan Ozsvath và Wolfgang Rindler vốn đang nghiên cứu dạng này đã vạch ra rằng hình học này tương ứng một cách chuẩn xác với vũ trụ được Dante mô tả trong tác phẩm Paradiso (Thiên đường).
2) Thi pháp mới sẽ kinh nghiệm văn học trong ngôi nhà của thế giới vật lý - một thế giới mà hiện chúng ta đang nhận thức rằng nó đầy những chuyển đổi cục diện tinh tế, những động loạn, những trật tự hiện xuất và những tiến trình tự phản ánh - chúng có thể tác động như những mô hình và những vật tương tự diệu kì cho sự sáng tạo nghệ thuật. Một số những nhà hoá học, vật lý và điều khiển học như Roald Hoffman, Ilya Prigogine, Cyril Stanley Smith, John Archibald Wheeler và Douglas Hofstadter có thể giúp chỉ đường lối, nhưng trong thế giới văn học và phê bình thực tình không hề có phê bình, và rất ít văn học thuộc loại này. Những nhà phê bình như Katharine Hayles, Koen de Pryck, và Alexander Argyros là những ngoại lệ đáng chào mừng.
3) Thi pháp mới sẽ kinh nghiệm văn học trong một ngôi nhà của thế giới đang sống. Thơ là một hoạt động của một chủng loại đang sống, với một bộ óc vả hệ thần kinh và thân thể đang sống. Như tôi đã vạch ra, những khả năng nền tảng của văn học và nghệ thuật - chẳng hạn như chúng ta có thể sản sinh và hiểu vận luật của thơ, thể tự sự, những dạng thức thị giác và giai đoạn - là đại đồng về mặt văn hoá và là hậu quả của việc đồng tiến hoá chủng tử - văn hoá. Chúng ta có một tự tính, tự tính này mang tính văn hoá, văn hoá này mang tính kinh điển. Tự tính văn học và nghệ thuật của chúng ta được ấn kí trong những hệ thần kinh trung ương của chúng ta, tự tính này là thuật toán (algorithm) làm phát sinh sự biến thiên phi thường trong nghệ thuật và văn học của loài người. Chúng ta cần lắng nghe những gì khoa học thần kinh đang phát biểu, lắng nghe những nhà nhân tính học (ethology), sinh học xã hội (sociobiology), hoá học thần kinh (neurochemistry), vật lý tâm lý (psychophysics), nhưng các khoa sinh học phân tử (molecular biology) và hoá sinh học (biochemistry) cũng quan trọng không kém. Tiên khởi mạnh nhất của ngôn ngữ trong thế giới vật lý là phân tử DNA, thực vậy có thể chính xác hơn khi nói rằng ngôn ngữ chỉ là DNA mau, hoặc nói rằng DNA là ngôn ngữ chậm. Những điều chúng ta đang tìm thấy về cách phân tử DNA tự biên tập, phát biểu, tu sửa, tái kết, và tái sinh sản là có tầm quan tâm then chốt và trung tâm nhất đối với văn hóa âm nhạc và nghệ thuật vốn cũng làm đúng những việc này, có lẽ trong những đường lối tương tự..." (HNH nhấn mạnh).
Lý luận văn học của chúng ta là sự tích hợp những thành tựu của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn trên nền của hệ tư tưởng và hoàn toàn ngoảnh lưng với toán học và khoa học tự nhiên. Lý luận văn học của F.Turner có một ngôn ngữ khác, muốn hiểu phải nắm được những thành tựu của những ngành toán học và khoa học tự nhiên mà quá nửa đa số chúng ta lần đầu tiên nghe tên. Phải chăng với F.Turner, lý luận văn học trở thành một lĩnh vực độc địa để thực hiện sự tích hợp khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, nhân văn?
Trọng điểm bài này là bàn về chủ nghĩa hiện đại. Chủ nghĩa hậu hiện đại hình thành từ những năm sáu mươi thế kỉ XX, mặt nào đó tiếp tục chủ nghĩa hiện đại, do đó nó được xem như là “tái bút” của chủ nghĩa hiện đại (giới nghiên cứu văn học ở ta quan tâm đến đoạn tái bút hơn là chính bức thư). Mặt khác, nó xa rời chủ nghĩa hiện đại, nó trở về với những thành tựu lý thuyết, thi pháp và nghệ thuật của thế kỉ XIX (chủ nghĩa lãng mạn), thế kỉ XVIII (phong trào Khai sáng)... và cả những thành tựu của thời kì Phục hưng nữa. Như vậy, chủ nghĩa hậu hiện đại ôm đồm nhiều thứ quá, nó lại có tham vọng thống hợp (synchrétiser) tất cả lại, nhiệm vụ này nó không làm nổi vì thiếu một lý thuyết văn hoá hoàn chỉnh. Chủ nghĩa hậu hiện đại khá dồi dào về mặt sản xuất lý thuyết, tuy nhiên, hiệu quả rõ rệt nhất của nó là lật tẩy những sự trịnh trọng lố bịch và những ngạo ngược vô lối của học thuật hàn lâm.
Tôi xin phép kết thúc bài này bằng những ý kiến của Simon Leys, một nhà văn và một học giả lớn, phát biểu trong đợt tổng kết một cuộc tranh cãi kéo dài trong giới đại học và hàn lâm ở Úc về ích dụng và mục đích của lý luận văn học hàn lâm (cũng xin nói trước Simon Leys có những quan niệm cực đoan, nhưng đây là sự cực đoan “có gu”, "có duyên" của một người có trình độ văn hoá cao):
"Chúng ta đừng có tự lừa phỉnh mình nữa: công việc nghiên cứu văn học chẳng có ích dụng thực tiễn nào cả - trừ phi đối với những người muốn trở thành giáo sư văn học. Nhận xét tinh khôn này là của Nabokov và theo tôi nghĩ, chúng ta hằng nhớ đến nó khi chúng ta cố công tìm hiểu những sự phức tạp phong phú của lý luận văn học đương đại.
Những nhà phê bình và những nhà nghiên cứu văn học chẳng qua chỉ là những người chỉ chỗ ngồi (usher) trong chốn văn chương. Trong phòng hoà nhạc, trong rạp hát và rạp ôpêra, những người chỉ chỗ ngồi đưa chúng ta tới đúng ghế ngồi, thế là họ làm trọn vai trò của họ, một vai trò khiêm nhường nhưng có ích. Bỗng dưng có những người chỉ chỗ cứ nằng nặc muốn leo lên sân khấu hát hò và diễn cùng những người nghệ sĩ được chúng ta hoan hô, với những người như vậy chúng ta có bực mình với sự nhố nhăng của họ thì cũng đúng thôi.
Phê bình vắn học (hoặc lý luận văn học) chỉ có giá trị lâu dài và đáng được tiếp nhận một cách nghiêm túc khi nó được sản sinh bởi những nhà văn sáng tạo văn chương (creative writer) và khi bản thân nó là một tác phẩm nghệ thuật.
E.M.Forster nhận xét: "Nghiên cứu, từ này gây ấn tượng long trọng lắm. Tôi đương nghiên cứu Dante nghe ra gớm hơn nhiều tôi đương đọc Dante. Thực ra là kém hơn nhiều. Nghiên cứu chỉ là một hình thức nói tầm phào nghiêm túc”.
Đối với chúng ta, những người thầy giáo, những nhà nghiên cứu, những nhà phê bình khiêm nhường, tham vọng cao quý nhất, thành tựu cao cả nhất và niềm tự hào lớn nhất mãi mãi thì vẫn là điều này: gây được ở bạn đọc của chúng ta tình yêu với văn học và làm cho họ phát hiện những cuốn sách hay và đẹp.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu MaiTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpTương lai trong lòng quá khứ
06/02/2009Nguyễn QuânBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí ThànhVề tật xấu của người Việt: Tre Việt Nam trong thế kỷ 21
09/05/2008Phong Doanh