Sự bất định của khoa học và các giá trị

03:45 CH @ Thứ Tư - 03 Tháng Mười Hai, 2008

Richard P. Feynman (1918-1988) là nhà vật lý lý thuyết người Mỹ được trao giải thưởng Nobel vì những cống hiến quan trọng trong việc xây dựng lý thuyết điện động lực học lượng tử. Tên của ông gắn với phương pháp giản đồ (Feynman diagrams) mà tất cả những người nghiên cứu vật lý lý thuyết đều biết. Feynman được tôn vinh với nhiều giải thưởng và danh hiệu. Ông là tác giả của bộ sách Những bài giảng vật lý của Feynman (Feynman Lectures on Phyics) rất nổi tiếng cũng như nhiều tác phẩm về khoa học dành cho những người bình thường. Một trong số đó là tác phẩm Ý nghĩa của tất cả mọi thứ (The meaning of it all) - ghi chép lại ba bài giảng tại Đại học Washington (Seattle) năm 1963. Ba bài giảng có nhan đề lần lượt là: Sự bất định của khoa học (The Uncertainty of Science), Sự bất định của các giá trị (The Uncertainty of Values), Cái thời đại không khoa học này (This Unscientific Age).

Dưới đây là một số trích đoạn của bài giảng thứ nhất và thứ hai.

Quy luật cũ có thể không đúng. Làm sao mà một quan sát lại có thể không đúng? Nếu nó đã được kiểm tra cẩn thận, làm sao lại có thể sai? Tại sao các nhà vật lý lại cứ luôn thay đổi các quy luật? Câu trả lời là: thứ nhất, các quy luật không phải là những quan sát, và thứ hai, các thí nghiệm luôn luôn không chính xác. Các quy luật là những quy luật được phỏng đoán, là những ngoại suy, chứ không phải là thứ gì đó mà các quan sát khẳng định. Những quy luật chính là những phỏng đoán tốt cho tới nay vẫn lọt qua được cái rây lọc. Và sau này lại xảy ra việc có được cái rây lọc có lỗ nhỏ hơn những rây lọc trước kia đã dùng, và lúc ấy thì định luật bị [rây lọc] mắc lại. Vậy những định luật là được phỏng đoán; chúng là những ngoại suy cho cái còn chưa biết. Anh không biết sẽ xảy ra điều gì, vậy nên anh đoán thử.

Thí dụ như người ta đã tin - người ta đã khám phá - là sự chuyển động không ảnh hưởng đến trọng lượng của một vật - là nếu anh quay con cù và cân nó, rồi sau lại cân nó khi nó đứng yên, trọng lượng của con cù vẫn như vậy. Đó là kết quả của một quan sát. Thế nhưng anh không thể cân một cái gì đó thật chính xác đến một phần tỷ. Song nay thì ta hiểu rằng một con cù đang quay cân nặng hơn con cù đứng yên một chút xíu, ít hơn một phần tỷ. Nếu con cù quay đủ nhanh sao cho tốc độ của mép ngoài con cù đạt tới 186.000 dặm (miles) một giây, thì trọng lượng của nó tăng đáng kể - nhưng phải tới mức đó mới được. Những thí nghiệm đầu tiên được thực hiện với những con cù quay chậm hơn tốc độ 186.000 dặm một giây rất nhiều. Lúc đó người ta tưởng rằng khối lượng của con cù đang quay và con cù đứng yên đích xác là như nhau, và ai đó đã phỏng đoán là khối lượng không bao giờ thay đổi [khi chuyển động].

Sao mà ngớ ngẩn thế! Thật là ngốc nghếch! Đây chỉ là một quy luật được phỏng đoán, một sự ngoại suy. Sao anh ta lại làm một việc không khoa học đến thế? Ở đây không có gì là không khoa học cả; đó chỉ là sự bất định. Nếu không phỏng đoán thì mới là không khoa học. Cần phải phỏng đoán bởi vì chỉ có những ngoại suy mới có được giá trị thực nào đó. Đó là nguyên tắc duy nhất đáng nên biết về cái mà anh nghĩ sẽ xảy ra trong trường hợp anh chưa thử. Tri thức chẳng có chút giá trị thực nào, nếu tất cả những gì anh có thể nói cho tôi biết là cái đã xảy ra ngày hôm qua. Cần thiết là phải nói được cái gì sẽ xảy ra ngày mai, nếu anh làm một cái gì đó - đó không những là cần thiết mà còn thú vị nữa. Chỉ có điều anh phải thật mong muốn dính líu sâu vào việc này.

Mọi định luật khoa học, mọi nguyên lý khoa học, mọi phát ngôn kết quả của một quan sát đều là một thứ tổng kết nào đó đã bỏ qua những chi tiết, bởi vì không có cái gì có thể phát ngôn thật chính xác. Con người đơn giản là quên mất - lẽ ra anh ta phải phát ngôn định luật: “khối lượng không thay đổi nhiều khi tốc độ không cao lắm.” Trò chơi là phải tạo ra định luật đặc thù rồi sau đó xem thử nó có đi qua được cái rây lọc hay không. Cho nên sự phỏng đoán đặc thù là khối lượng không bao giờ thay đổi gì hết. Một khả năng đầy hứng thú! Không có hại gì hết nếu té ra không phải như thế. Đây chỉ là sự bất định, và chẳng có hại gì cả khi ở tình trạng bất định. Chẳng thà nói được điều gì đó mà mình chưa chắc chắn, còn hơn chẳng nói điều gì hết cả.

Tất cả mọi thứ chúng tôi nói trong khoa học đều là bất định, bởi vì chúng chỉ là những kết luận, đây là tất yếu và là sự thật. Chúng là những phỏng đoán xem cái gì sẽ xảy ra, và anh không thể biết được cái gì sẽ [thực sự] xảy ra, bởi vì chúng tôi còn chưa làm các thí nghiệm thật đầy đủ nhất.

Thật kỳ dị là hiệu ứng khối lượng của con cù đang quay quá nhỏ bé, anh có thể bảo rằng: ”Ồ, có khác biệt gì đâu”. Thế nhưng để có được một định luật đúng đắn, hay ít nhất cũng đi lọt qua được những rây lọc liên tiếp gắn với nhiều quan sát hơn nữa, lại đòi hỏi phải có trí tuệ và trí tưởng tượng phi thường, phải có sự đổi mới hoàn toàn triết học của chúng tôi, đổi mới sự hiểu biết của chúng tôi về không gian và thời gian. Tôi đang nói đến lý thuyết tương đối. Xảy ra việc để cho những hiệu ứng nhỏ bé trở nên đáng kể luôn luôn đòi hỏi phải có những cải biến ý tưởng mang tính cách mạng nhất.

Cho nên, các nhà khoa học thường phải quan hệ với hoài nghi và bất định. Tất cả tri thức khoa học là bất định. Trải nghiệm với hoài nghi và bất định như thế là điều thật quan trọng. Tôi tin rằng đó là giá trị rất lớn và là thứ được mở rộng vượt ra ngoài khoa học. Tôi tin rằng để giải quyết bất cứ vấn đề nào trước kia chưa từng được giải quyết, anh phải hé mở cánh cửa cho sự chưa biết. Anh phải cho phép có khả năng là anh không thật đúng lắm. Nếu không thế, mà anh cứ quyết định thì anh có thể không giải quyết được vấn đề ấy.

Khi một nhà khoa học bảo với anh rằng ông ta không biết lời giải đáp, ông ta là một người không hiểu biết. Khi ông ta bảo anh rằng ông ta có một linh cảm là có thể giải quyết thế nào, ông ta đang bất định về chuyện này. Khi ông ta khá chắc chắn là sẽ giải quyết thế nào và ông ta bảo anh rằng: “Theo cách này thì sẽ giải quyết được, tôi đánh cuộc với anh đó,” ông ta vẫn còn có đôi chút hoài nghi. Và điều cực kỳ quan trọng để đạt được tiến bộ là chúng tôi thừa nhận sự không hiểu biết ấy, nỗi hoài nghi ấy. Bởi vì khi chúng tôi có hoài nghi, chúng tôi sẽ đề xuất tìm kiếm những ý tưởng mới theo những phương hướng mới. Loại việc phát triển khoa học không phải là cái loại việc mà anh chỉ quan sát không thôi, nhưng quan trọng hơn nhiều là loại việc mà anh sáng tạo ra những thứ mới mẻ để thí nghiệm.

Nếu chúng tôi không có khả năng hay không mong muốn nhìn theo bất cứ phương hướng mới nào, nếu chúng tôi không có hoài nghi hay thừa nhận sự không hiểu biết, chúng tôi hẳn đã không có được một ý tưởng mới nào hết. Hẳn đã chẳng có cái gì đáng để kiểm tra lại, bởi vì chúng tôi hẳn đã biết rõ cái gì là đúng. Vậy nên ngày nay cái mà chúng tôi gọi là tri thức khoa học chính là một khối các phát ngôn của sự bất định ở những mức độ khác nhau. Một số phát ngôn là không chắc chắn nhiều nhất; một số khác là gần như chắc chắn; nhưng chẳng có phát ngôn nào là tuyệt đối chắc chắn cả. Các nhà khoa học quen thuộc với chuyện này. Chúng tôi biết rằng sống và không hiểu biết là chuyện phù hợp với nhau. Một số người bảo rằng: “Làm sao anh sống được mà không hiểu biết?” Tôi không hiểu họ muốn nói gì. Tôi luôn luôn sống mà không hiểu biết. Thật là dễ dàng. Làm cách nào mà anh hiểu biết, ấy chính là điều tôi muốn biết.

Quyền tự do được hoài nghi này là vấn đề quan trọng trong khoa học và tôi tin rằng [nó quan trọng] cả trong những lĩnh vực khác nữa. Quyền tự do ấy là thành quả của một cuộc đấu tranh. Đó là cuộc đấu tranh để được phép hoài nghi, để được cảm thấy không chắc chắn. Và tôi không muốn chúng ta quên đi tầm quan trọng của cuộc đấu tranh và để cho mọi thứ tiêu tan vì bỏ cuộc. Tôi cảm thấy có trách nhiệm với tư cách nhà khoa học, là người biết rõ giá trị to lớn của triết lý thật thỏa đáng của sự không hiểu biết, và sự tiến bộ trở thành khả dĩ là nhờ triết lý như thế, sự tiến bộ là kết quả của quyền tự do tư tưởng. Tôi cảm thấy có trách nhiệm phải tuyên bố giá trị của quyền tự do ấy, và dạy dỗ nỗi hoài nghi đó không phải là chuyện cần phải e ngại mà là chuyện cần phải hoan nghênh như một khả năng có tiềm lực mới mẻ cho loài người. Nếu anh biết là anh không chắc chắn lắm, anh có cơ hội để cải tiến tình hình. Tôi muốn yêu cầu quyền tự do ấy cho những thế hệ tương lai.

Hoài nghi rõ ràng là một giá trị trong khoa học. Liệu có phải như thế không trong các lĩnh vực khác là vấn đề còn để ngỏ và là chuyện còn bất định. Tôi dự tính trong những bài giảng tiếp theo sẽ thảo luận chính về điểm này và sẽ cố gắng chứng minh rằng hoài nghi là quan trọng và hoài nghi không phải là thứ đáng sợ mà là thứ có giá trị lớn.

***

Chúng ta đều thấy buồn khi chúng ta nghĩ đến những tiềm lực thần kỳ mà con người hình như có được và khi chúng ta đối chiếu những tiềm lực ấy với những thành tựu thật nhỏ bé mà chúng ta đạt được. Hết lần này đến lần khác người ta đã nghĩ rằng chúng ta hẳn đã có thể làm tốt hơn nhiều. Trong quá khứ, vào những thời kỳ tăm tối đáng sợ, người ta đã có những giấc mơ về tương lai, chúng ta là những người ở trong tương lai của họ, dù nhiều giấc mơ đã được thực hiện vượt quá mong đợi, nhưng phần nhiều chúng ta cũng vẫn đang có cùng những giấc mơ ấy. Những hy vọng cho tương lai ngày nay phần lớn cũng vẫn là những hy vọng trước kia. Có những lúc nào đó người ta đã nghĩ rằng sở dĩ cái tiềm năng ấy đã không phát triển được là bởi vì mọi người đều không hiểu biết và nền giáo dục ắt là lời giải cho vấn đề, rằng nếu mọi người đều được giáo dục thì hẳn tất cả chúng ta đều thành những Voltaire hết. Nhưng té ra là những điều dối trá và xấu xa độc ác có thể được giảng dạy cũng dễ dàng như những điều tốt. Giáo dục là một sức mạnh to lớn, nhưng nó có thể hoạt động theo cách này hay cách kia. Tôi cũng đã nghe thấy người ta bảo là thông tin liên lạc giữa các quốc gia phải dẫn đến một sự hiểu biết lẫn nhau và như thế là lời giải cho vấn đề phát triển những tiềm lực của con người. Thế nhưng những phương tiện thông tin có thể thành kênh truyền định hướng và bị làm tắc nghẽn. Những gì được thông tin có thể là những lời nói dối cũng như là sự thật, là những lời tuyên truyền cũng như là thông tin thực sự và có giá trị. Thông tin liên lạc cũng là một sức mạnh, nhưng phục vụ hoặc cho thiện hoặc cho ác. Những khoa học ứng dụng cũng đã có lúc tưởng rằng sẽ giải phóng con người ít nhất cũng thoát khỏi những khó khăn vật chất, và cũng đã có những điều tốt đẹp được ghi nhận, đặc biệt là y học chẳng hạn. Mặt khác, nhiều nhà khoa học nay đang làm việc trong những phòng thí nghiệm bí mật để phát triển những bệnh tật đã từng được kiểm soát rất cẩn thận.

Mọi người đều không ưa thích chiến tranh. Ngày nay giấc mơ đang là: hòa bình sẽ là lời giải đáp. Không chi phí cho vũ trang, chúng ta có thể làm bất cứ cái gì chúng ta muốn. Nhưng ngay cả hòa bình cũng là sức mạnh lớn lao phục vụ cả cho cái thiện cũng như cái ác. Làm sao hòa bình lại phục vụ cho cái ác? Tôi không biết. Chúng ta rồi sẽ thấy, nếu như có khi nào đó chúng ta có được hòa bình. Rõ ràng chúng ta có hòa bình như là một sức mạnh to lớn, cũng như ta có sức mạnh vật chất, thông tin liên lạc, nền giáo dục, tính trung thực và những lý tưởng của rất nhiều những người mơ mộng. Ngày nay chúng ta có nhiều sức mạnh kiểu này để mà kiểm soát, nhiều hơn là những người cổ đại đã có. Và có thể là chúng ta đang làm chuyện này tốt hơn đôi chút so với phần lớn những người cổ đại. Thế nhưng những gì chúng ta lẽ ra phải có khả năng làm được hình như là quá to lớn so với những thành tựu lộn xộn đã hoàn thành của chúng ta. Tại sao lại như vậy? Tại sao chúng ta lại không chinh phục được bản thân mình? Bởi vì chúng ta đã phát hiện ra rằng ngay cả những sức mạnh và những tài năng lớn lao nhất cũng không đem theo bên mình bất cứ chỉ dẫn minh bạch nào về việc sử dụng chúng ra sao. Chẳng hạn như sự tích tụ to lớn của sự hiểu biết về hành vi của thế giới vật lý chỉ thuyết phục người ta rằng hành vi ấy có kiểu cách như vô ý nghĩa. Các khoa học không trực tiếp dạy bảo người ta điều tốt và điều xấu.

Qua tất cả mọi thời đại con người đã cố gắng để hiểu thấu đáo ý nghĩa của cuộc đời. Họ nhận ra rằng nếu có một định hướng nào đó hay một ý nghĩa nào đó có thể đưa ra cho toàn thể sự vật, cho các hành động của chúng ta, khi ấy các sức mạnh to lớn của con người sẽ được khai thông. Cho nên rất nhiều câu trả lời đã được đưa ra cho câu hỏi về ý nghĩa của mọi thứ. Song những câu trả lời này lại khác nhau đủ mọi loại. Và những người ủng hộ một ý tưởng này lại nhìn vào hành động của những người tin vào một ý tưởng khác với nỗi kinh hoàng - kinh hoàng bởi vì nhìn từ những quan điểm bất đồng thì tất cả tiềm lực của cuộc chạy đua là hướng vào một lối đi sai lầm và hạn chế mù quáng. Quả thực có điều đó trong lịch sử của những thứ quái đản vô bờ được tạo nên bởi niềm tin sai lầm mà các triết gia đã đi đến chỗ thực hiện những tiềm lực phi thường và những khả năng diệu kỳ của con người.

Giấc mơ là tìm được kênh truyền mở ngỏ. Vậy ý nghĩa của mọi thứ giờ đây là gì? Chúng ta ngày nay có thể nói gì để xua tan đi vẻ huyền bí của sự hiện hữu? Nếu ta tính đến tất cả mọi điều, không phải chỉ những gì mà người cổ đại đã biết, nhưng cả những thứ chúng ta đã tìm ra được cho đến hôm nay mà người cổ đại chưa biết, thì tôi nghĩ rằng chúng ta phải thành thật thú nhận là chúng ta không biết. Thế nhưng bằng cách thừa nhận điều này, có lẽ chúng ta đã tìm được kênh truyền mở ngỏ.

Thú nhận rằng chúng ta không biết và duy trì mãi mãi thái độ cho rằng chúng ta không biết rõ phương hướng nhất thiết phải đi theo, điều này cho phép một khả năng được thay đổi, được suy tư, được có những đóng góp mới và những phát hiện mới cho vấn đề phát triển một cách thức để làm cái mà chúng ta mong muốn cuối cùng, ngay cả khi chúng ta không biết chúng ta muốn cái gì.

Nhìn lại những thời kỳ tồi tệ nhất, có vẻ như bao giờ cũng là những thời kỳ có những người tin vào cái gì đó với niềm tin tuyệt đối và tinh thần giáo điều tuyệt đối. Và họ thật chân thành trong chuyện này đến mức họ khăng khăng đòi tất cả phần còn lại của thế giới phải đồng ý với họ. Rồi thì họ có thể làm những điều mâu thuẫn trực tiếp với những niềm tin của chính họ nhằm mục đích duy trì cái mà họ bảo là đúng.

Cho nên cũng như tôi đã triển khai trong buổi nói chuyện lần trước và tôi muốn xác nhận ở đây, rằng chính là trong việc thú nhận không hiểu biết và việc thú nhận bất định mà có được hy vọng cho sự vận động liên tục của con người về một hướng nào đó không bị hạn chế, không bị thường xuyên ngăn chặn như đã từng bị như thế biết bao lần trong những thời kỳ trước đây của lịch sử con người. Tôi nói rằng chúng tôi không biết ý nghĩa cuộc đời là gì và những giá trị đạo đức đúng đắn là gì, rằng chúng tôi chẳng có cách thức nào để chọn lựa chúng và vân vân. Không thể thảo luận gì về những giá trị đạo đức, về ý nghĩa cuộc đời và những thứ tương tự mà lại không đi tới ngọn nguồn to lớn của hệ thống đạo đức và những mô tả ý nghĩa, là những thứ ở trong lĩnh vực tôn giáo.

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Quan hệ nhân quả trong khoa học

    16/01/2018Trần Văn ToànKhi nói đến quan hệ nhân quả có lẽ ít ai tưởng tượng được rằng đó là một vấn đề rất phức tạp. Phức tạp là vì nhiều lý do...
  • Khoa học phức hợp – khoa học của thế kỷ 21

    22/04/2016CC biên dịch“Tôi tin chắc rằng những quốc gia thiện dụng khoa học phức hợp sẽ trở thành những siêu cường về kinh tế, văn hóa và chính trị trong thế kỷ 21” . Phát biểu trên của Heinz R. Pagels tác giả cuốn sách – Mơ ước của lý trí: Máy tính và sự phát nguyên của khoa học phức hợp là một lời kêu gọi các nhà khoa học, công nghệ và các nhà hoạch định chính sách nghiên cứu và triển khai khoa học phức hợp...
  • Khoa học thế kỷ XXI: Vượt ra ngoài quy giản luận

    16/03/2015Đặng Mộng LânChúng ta đã bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ được chờ đợi sẽ xuất hiện cuộc cách mạng khoa học mới. Cuộc cách mạng khoa học lần thứ ba này sẽ là như thế nào?
  • Khuôn mẫu mới của khoa học đang xuất hiện

    29/04/2006Đặng Mộng LânChúng ta đã bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ được chờ đợi sẽ xuất hiện một cuộc cách mạng khoa học mới. Cuộc cách mạng đó sẽ như thế nào? Phải chăng trước hết nó cũng sẽ là một cuộc cách mạng về vật lý học với sự phá vỡ khuôn mẫu hiện đang tồn tại, hay nó sẽ là một cuộc cách mạng trong sinh học với sự khám phá ra nguồn gốc của sự sống và còn hơn thế, nguồn gốc của ý thức, một sự thay đổi cơ bản trong cách tiếp cận các vấn đề về tự nhiên và xã hội và do đó, sự hình thành một cái nhìn mới về thế giới, cách tiếp cận đang thống trị đã tỏ ra có những giới hạn?
  • Giới hạn của khoa học và khoa học về giới hạn

    17/12/2005Phạm Việt HưngTrong khi các nhà khoa học có xu hướng chứng minh rằng những cái tưởng là bất khả thực ra là khả, thì ngược lại các nhà triết học có cái nhìn sâu xa hơn rằng nhiều cái tưởng là khả hóa ra lại là bất khả. Từ đó Barrow làm một cuộc tổng kiểm kê các thành tựu nhận thức của nhân loại trong thế kỷ 20 để chỉ ra hàng loạt bài toán bất khả mà loài người đã từng phải trả giá cho thấy thực ra hiện tượng bất khả xuất hiện trên mọi lĩnh vực nhận thức, từ hội họa, nghệ thuật, đến kinh tế, khoa học, chính trị…
  • Cách tiếp cận hệ thống trong vấn đề phân loại các khoa học và nghiên cứu khoa học

    10/11/2005Đỗ Thu Thủy dịchVấn đề phân loại tri thức khoa học như là một trong số những vấn đề quan trọng nhất trong phương pháp luận khoa học chiếm một vị trí đáng kể trong các công trình của A. Polikarov. Tác giả bài viết này rất lấy làm hân hạnh đã được cộng tác cùng A. Polikarov nghiên cứu vấn đề lớn này. Hy vọng bằng những nỗ lực chung sẽ đưa ra được những căn cứ mới để phân định, phù hợp với tinh thần của khoa học nửa sau thế kỷ XX...
  • xem toàn bộ