Lý thuyết Ngũ hành

03:45 CH @ Thứ Ba - 09 Tháng Sáu, 2009

Mục lục

Lời giới thiệu
Chương I: Lý thuyết Ngũ Hành
1.1 Tại sao cái gì cũng được gắn với Ngũ hành
1.2 Nghiên cứu về thở
1.3 Khái quát một số đặc tính của Ngũ hành

Chương II: Những nhịp điệu trong tự nhiên
2.1 Nhịp điệu của hòn đá
2.2. Nhịp điệu của trái cây
2.3 Nhịp điệu của con chim
2.4 Nhịp điệu của con người
2.5 Thô và tinh trong nhịp điệu tích/tản
2.6 Tích tản của một tập hợp người

Chương III: Phật – Nho – Lão
3.1 Không và sắc trong Phật giáo
3.2 Tam giáo đồng hành tại Việt Nam
3.2.1 Thực hành triết lý cơ bản của Phật giáo
3.2.2 Thực hành những lời khuyên của Khổng Tử
3.2.3 Đạo Lão
3.2.4 Sự đồng hành của Phật – Nho – Lão tại Việt Nam

Chương IV: Vật lý học hiện đại
4.1 Học thuyết tương đối rộng của Einstein
4.2 Vật lý nội nguyên tử
4.2.1 Những hạt cơ bản đã tìm thấy
4.2.2 Sự tồn tại một loại “ Hạt cơ sở mới”
4.3 Lực hấp dẫn

Chương V
: Bản thể luận
5.1 Bản thể luận
5.2 Tâm một cơ quan tích tản siêu đẳng

Chương VI
: Sự phát triển
6.1 Sự phát triển con người
6.2 Sự phát triển của một vùng

Tài liệu tham khảo


Sau khi Chungta.com giới thiệu các tác phẩm của tác giả Thu San Nguyễn Thế Hùng, như Ngũ hành và khoa học,Ngũ hành nhịp điệu sáng tạo, Phong thủy của nền kinh tế tri thức... nhiều độc giả ngỏ ý được đọc toàn văn các cuốn sách nói trên. Được sự đồng ý của tác giả, chúng tôi sẽ lần lượt đăng toàn văn tác phẩm "Ngũ hành nhịp điệu sáng tạo" - cuốn sách tập trung nghiên cứu hai hành Kim và Thủy, coi nó là nhịp điệu tích/tản để hướng tới việc lý giải một số vấn đề mang tính cơ bản và sâu sắc hơn.

1.1. Tại sao cái gì cũng được gắn với Ngũ hành

Có 5 từ trong môn Ngũ hành gọi là: Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ. Không có một thứ gì mà không được gắn với một trong 5 từ ấy. Sao trên trời thì có Sao Kim, sao Thủy, Sao Mộc, Sao Hỏa, Sao Thổ,… Phương hướng cũng vậy: Phương tây thuộc Kim, bắc Thủy, Nam Hỏa, Đông là Mộc. Các bộ phận trong cơ thể cũng có Kim là phổi, Thận là Thủy,… Thậm chí ngày giờ có ngày Kim ngày Mộc, ngày Hỏa. Bàn tay ta có gò Mộc tinh, gò Kim tinh. Lưỡi có thể nhận biết được vị của thực phẩm: vị cay là Kim, vị mặn là Thủy, vị chua là Mộc…. Tâm trạng con người cũng được phân theo Ngũ hành: Buồn là Kim, sợ là Thủy, giận là Mộc. Giọng nói con người cũng được qui về Ngũ hành: Khóc là Kim, Rên là Thủy,….

Một cách tự nhiên nhất và khoa học nhất chúng ta có thể hỏi: Tại sao cổ nhân cứ qui các vật, các khái niệm trên đời này về Ngũ hành? Tại sao phép gán đó lại có thể là chỗ dựa cho các tư duy? Tại sao thầy thuốc dùng Ngũ hành lại có thể chẩn bệnh chính xác, chữa bệnh hiệu quả?

Để trả lời các câu hỏi trên chúng ta trước hết hãy bắt đầu từ lập luận: cái có tên giống nhau thì ắt phải có cái gì chung.

Chẳng hạn, hành Kim được gắn cho sao Kim, phương Tây, nỗi buồn, vị cay, mầu trắng, lá phổi, … Vậy cái gì là chung nhất cho các đại lượng trên. Tại sao nỗi buồn của một cô gái lại có chung tên gọi là Kim với vùng đất phía tây, với màu trắng trên lá cờ của nước Pháp hoặc với ngôi sao Kim xa xôi trong vũ trụ bao la? Cái gì là chung cho những thứ vô cùng khác biệt, xa cách nhau như vậy.

Đêm hôm thứ ba vừa rồi một chuyên gia chiến lược đang trầm ngâm đọc bản kết quả phân tích dự báo về trữ lượng dầu mỏ trên thềm lục địa phía Nam đảo Phú Quốc bỗng giận sôi lên vì số liệu bị xóa ở chỗ quan trọng nhất. Sáng hôm sau ông lại bị một chị bán hàng ngoài chợ Hôm ở trung tâm Hà nội đốt vía vì mới tám giờ đến hỏi giá định mua hai cân cam sành rồi lại không mua? Nỗi bực tức của ông và nỗi giận của cô bán hàng đều được gọi là hành Mộc. Nhưng tại sao lại là Mộc. Tại sao cái giận học thuật cao siêu của ông lại bị xếp chung ngăn với hành vi vô văn hóa kia?

Hay người xưa cứ bịa đặt bừa phứa cho các đại lượng ấy một cái tên là Ngũ hành, Kim-Thủy-Mộc-Hỏa-Thổ, mà bây giờ khoa học hiện đại đã quăng sọt rác hết. Nhưng, nếu vậy thì tại sao môn Ngũ hành lại bền vững đến tận bây giờ sau hàng ngàn năm thử thách.

Không, ngũ hành không bịa đặt. Ngũ hành thật đơn giản. Ngũ hành chính là biểu tượng của quá trình vận động. Bởi vì sự vận động chính là cái chung nhất của mọi sự vật trên thế gian này.

Những sự vật khác nhau mà có đặc tính vận động giống nhau, hình thức vận động giống nhau, kết quả vận động giống nhau,… sẽ được qui về cùng một hành. Chữ hành ở đây xuất phát từ Hán tự chính là hành trình, quá trình, hành tiến, hành động,…

Mà trên thế gian này mọi sự vật chỉ có 5 kiểu cách vận động mà thôi. Năm phương thức vận động ấy khoác năm biểu tượng Kim-Thủy-Mộc-Hỏa-Thổ làm áo, vừa lộng lẫy vừa huyền bí. Cái áo Ngũ hành đó là thành quả dệt may hàng ngàn năm qua của những bộ óc siêu việt nhất. Ngũ hành cũng chính là di sản văn hóa quí báu nhất của tổ tiên chúng ta.

1.2.Nghiên cứu về thở

Con người ta ai cũng thở. Khi nào ngưng thở là chết. Vậy thở là một hoạt động quan trọng bậc nhất trong cuộc sống của chúng ta. Thở không đơn thuần chỉ có 2 pha: hít vào và thải ra. Thở là một chuỗi các hành động cực kỳ phức tạp, nó là sự mở đầu của 5 quá trình.

Quá trình 1: Thu vào

Trong quá trình thu vào ta mang vào phổi đủ thứ khí, ôxy (dưỡng khí), nitơ, các chất mùi, các hạt bụi bặm. Trong suốt quá trình thu vào, có một hoạt động khác rất quan trọng kèm theo, đó là sự lựa chọn để cho thông qua và loại bỏ. Tại các phế nang li ti trong phổi chỉ còn lại oxy. Phần lớn các thứ khí và bụi bặm khác không cần thiết cho các quá trình sống tiếp sau đó đều bị thải loại. Vậy quá trình thu vào luôn đi kèm với quá trình lựa chọn.

Quá trình 2: Tản ra.

Tản ra không phải là pha thở ra, sự thải thán khí qua mũi hoặc miệng. Sự thải loại thán khí ra chỉ là hành động chuẩn bị cho sự hít vào kế tiếp, nó là một phần tất yếu của quá trình 1. Tản ra ở đây chính là phân tán cái sản phẩm cuối cùng của quá trình 1, quá trình tích lũy của ôxy tại phổi, đến các tế bào. Trong quá trình 2 này, các phân tử ôxy được hồng cầu mang đến từng tế bào, cùng với chất dinh dưỡng được cung cấp từ dạ dày, để duy trì và phát triển sự sống của cơ thể.

Quá trình 3: Sinh mới.

Tại tế bào các phân tử ôxy mới được tản ra trong quá trình 2, tiến hành các phản ứng hóa sinh, cung cấp năng lượng cho các hoạt động khác của cơ thể. Quá trình sinh ra năng lượng mới được gọi là quá trình sinh mới bậc nhất. Quá trình sinh mới bậc nhất này bảo đảm sự hoạt động bền vững của cơ thể, mà ta gọi là sự sống. Nếu quá trình bậc nhất đó không được duy trì thì cơ thể sẽ chết. Các tế tào nhờ sự tản ra của ôxy từ phổi và sự tản ra của thực phẩm từ dạ dày sẽ được nuôi sống và phát triển. Các tế bào (trừ các neuron thần kinh) sẽ sống một cuộc đời không dài lắm, đủ độ chín thì chúng sẽ phân đôi, tạo ra một tế bào mới. Quá trình tạo thành tế bào mới gọi là quá trình sinh mới bậc hai. Cơ thể còn một quá trình sinh mới bậc ba nữa, chính là sinh ra con cái thuộc thế hệ sau. Ba quá trính sinh mới đó được gọi chung là sinh mới. Cả ba quá trình sinh mới này đều là hệ quả trực tiếp của hai quá trình trên: thu vào và tản ra.

Quá trình 4: Hoàn thiện

Đối với cơ thể sản phẩm của cả ba quá trình sinh mới đề cập ở trên đều dần dần hoàn thiện. Hoàn thiện bậc nhất là tập trung và gom góp năng lượng từ tất cả các tế bào để duy trì thân nhiệt, để sinh công cho các hoạt động cơ bắp thông thường. Hoàn thiện bậc hai là sự lớn lên của các tế bào non, từ chỗ mềm yếu thành các tế bào trưởng thành. Hoàn thiện bậc ba là duy trì và hoàn tất các khả năng sinh lý của quá trình sinh con. Đối với phụ nữ, đó là quá trình đều đặn bổ sung năng lượng để nuôi trứng lớn dần lên và chuẩn bị cho các chu kỳ kinh nguyệt từ lúc dậy thì cho đến khoảng 40-60 tuổi. Đối với nam giới thì quá trình hoàn thiện là liên tục sản suất tinh trùng cho đến khoảng trên dưới 70 tuổi.

Quá trình 5: Suy tàn.

Sự suy tàn là không tránh khỏi đối với tất cả các thực thể mà chúng ta đã biết trên thế gian này. Từ đời sống ngắn ngủi của con bọ chệp (một loại bọ, sáng được sinh ra, chiều đã chết), đến sự kéo dài hơn 15 tỉ năm qua của vũ trụ. Tất cả các đối tượng trong vũ trụ đều sẽ bị suy tàn. Cơ thể con người cũng suy tàn dần khi mà khả năng phân đôi của tế bào kém dần, giãn cách giữa hai lần sinh đôi ngắn lại, hoặc tại một số khu vực sự sinh sôi tế bào xảy ra nhanh đến mức không kìm hãm được (ung thư). Quá trình dẫn đến cái chết dần dần xảy ra, nhưng ta thấy không rõ lắm. Toàn bộ quá trình ấy đều được gọi là quá trình thứ 5, quá trình suy tàn, được kết thúc bởi cái chết mà ta gọi là “sự trở về với cát bụi”.

Năm quá trình trên của sự sống bắt đầu tự sự tích lũy ôxy trong phổi. Khi nào không thể tích ôxy được nữa thì chết. Năm quá trình ấy sẽ là cơ sở cho sự phân tích tiếp theo về các quá trình có thể qui về 5.

1.3. Khái quát hóa một số đặc tính của Ngũ hành

1.3.1.Năm bước của vận động

Ba bước đầu của sự vận động là thu vào, tản ra và sinh mới. Ba bước ấy biến từ không thành có. Hai bước sau là sự trở lui của vận động bao gồm hoàn thiện và suy tàn. Tổng cộng sự vận động có năm bước, hay năm hành trình. Năm bước ấy biến đổi sự vật từ nhỏ bé thành phương trưởng, từ âm nhu thành dương cương, từ vô hình thành hữu hình, rồi lại tiếp tục biến đổi sự vật từ đỉnh cao về nhỏ bé, từ dương về âm, từ hữu hình về lại vô hình, để rồi lại tiếp tục một chu trình vận động mới. Quá trình vận động đó trùng trùng, điệp điệp, lớp này tiếp lớp kia, xen kẽ đan chéo nhau, thúc đẩy kìm hãm nhau.

Nếu nhìn vỏ ngoài của sự vận động vô cùng và bất tận đó, ta thấy mọi sự thật phức tạp. Nhưng nếu qui lại thành Ngũ hành ta thấy vấn đề trở nên thực đơn giản. Chính vì vậy Lão tử mở đầu trước tác của ông bởi câu: “Đạo khả đạo phi thường đạo”[1]. Viết câu đó ra, Lão tử có ý rằng cái khả dĩ được gọi là đạo bao trùm cho mọi sự vật và quá trình trong trời đất phải là đạo phi thường. Đạo phi thường đó chính là qui trình vận động theo 5 bước, mà người xưa gọi là Ngũ hành.

Vận động trong vũ trụ là vô biên và vĩnh hằng. Hình thức của sự vận động không phải là một đường thẳng kéo dài mãi mãi, mà luôn khúc khuỷu quanh co. Quan sát thực tế cổ nhân đã nhận thấy các bước quanh co ấy chung qui chỉ có 5 giai đoạn. Giai đoạn 1 là tụ sinh, giai đoạn 2 là khởi phát, giai đoạn 3 là đột phá, giai đoạn 4 là hoàn thiện, giai đoạn 5 là suy tàn. Sau đó lại bắt đầu sự khởi sinh một vòng mới với những bước quanh co giống như trước, nhưng ở trình độ và qui mô khác. Năm bước của sự vận động đó, người xưa đã biểu tượng hóa thành Ngũ hành. Tức là 5 hành trình, lộ trình, hay giai đoạn. Ngũ hành không phải là các biểu tượng tĩnh tại như Kim là sắt thép, Thủy là nước, Mộc là cây cỏ, Hỏa là lửa, Thổ là đất. Ngũ hành chính là 5 phép chuyển hóa (chứ không phải 72 phép biến hóa như của Tôn Ngộ Không). Mọi sự vận động trong tự nhiên và xã hội không thể ra ngoài 5 phép chuyển hóa đó. Vậy Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ chính là 5 biểu diễn toán học mô tả 5 phép chuyển hóa đó. Các phép chuyển hóa ấy có quan hệ chặt chẽ với nhau theo một thứ tự nhất định. Sự vận động nào đi đúng trật tự trên thì thuận tự nhiên, đi trật thì gọi là ngược tự nhiên. Cho nên, người ta nói “con tạo xoay vần” với hàm nghĩa là tạo hóa thì “xoay” theo chiều thuận, còn con người có thể vì ý chí chủ quan mà “vần ngược” hoặc “vần thuận.”

1.3.2.Tóm tắt các đặc điểm của Ngũ hành

Ngũ hành là một học thuyết cổ, gồm có năm hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa và Thổ. Đó là năm hành trình chứ không phải là năm vật thể. Học thuyết ấy nói rằng từ Thổ sau năm giai đoạn sẽ lại quay về Thổ. Nhưng Thổ mới này là mặt đối lập của Thổ xuất phát. Như vậy, từ mặt đối lập này chuyển sang mặt đối lập kia sẽ phải qua năm giai đoạn. Hay nói rộng ra từ âm chuyển sang dương, từ dương chuyển về âm sẽ luôn phải qua năm hành trình.

Bìa cuốn sách "Ngũ hành nhịp điệu sáng tạo"

Những bước bắt đầu của sự thay đổi là những tích lũy dần về lượng. Những tích lũy ấy gọi là Kim. Hành Kim có đặc tính là tích tụ, nên gọi là tích Kim. Sau khi tích tụ đến một mức độ nào đó sẽ phải tản ra. Hành trình tản ra ấy gọi là Thủy. Cho nên hành Thủy gọi là tản Thủy. Sự tản ra luôn gặp cản trở, và không phải luôn luôn thành công, luôn luôn đến đích. Đó chính là nghệ thuật xây dựng cái mới. Trong những điều kiện tích tụ thuận lợi, thì sự tản Thủy sẽ được thực hiện thành công. Lúc đó một đối tượng mới sẽ được sinh thành, được sáng tạo ra. Quá trình sinh thành cái mới đó gọi là Mộc. Đến đây, ta đã biết được đặc tính của ba hành. Kim là tích tụ, là chuẩn bị điều kiện. Thủy là tản ra, là tìm đường phát triển. Mộc là sáng tạo mô hình mới. Sau khi có mô hình mới thì phải hoàn thiện nó, phải gọt rũa, phải làm thích ứng mô hình với môi trường. Quá trình đó gọi là Hỏa. Hành hỏa chính là sự sao chép, sự củng cố, sự nhân rộng mô hình. Khi mô hình đã ổn định, quá trình Hỏa kết thúc, thì trạng thái cân bằng mới được xác lập. Sự cân bằng mới đó là đối lập, là khác biệt với cái Thổ xuất phát. Sự vận động sang mặt đối lập đã hoàn thành. Thổ có đặc tính ổn định, cân bằng, ít muốn thay đổi, duy trì cái đã được xác lập, nhiều khi trì trệ. Những đòi hỏi đổi mới lại làm tích lũy những thay đổi nho nhỏ khác, và như vậy một quá trình vận động mới lại bắt đầu.

Ngũ hành chính là biện chứng của quá trình biến đổi. Hai quá trình đầu tiên Kim và Thủy mang nhịp điệu, tích vào và tản ra. Nhịp điệu ấy quyết định tốc độ và hình thái của vận động. Việc truy tìm bản thể của vũ trụ bắt đầu từ việc nghiên cứu nhịp điệu của hai hành này. Khi tìm được cái nhịp điệu chung phổ quát cho mọi vật thể trong vũ trụ ta sẽ thấy hiển hiện trong tâm bản thể của vũ trụ. Và mục đích cơ bản của cuốn sách mỏng này là từ việc tìm hiểu các nhịp điệu tích/tản để tìm ra những nét chung nhất cho các hiện tượng, các sự vật.

1.3.3.Vài ví dụ về Ngũ hành

Ví dụ 1: Thánh Gióng

Truyền thuyết Thánh Gióng chính là một ví dụ tuyệt vời của dân Việt nam về Ngũ hành. Ta có thể đọc truyền thuyết Thánh Gióng theo Ngũ hành như sau:

Hành Kim: Từ đầu đến “Thánh đẻ ra ba năm không nói cười, nhưng khi có lời hiệu triệu của vua ra đánh giặc, thì Thánh sẵn sàng và cả làng tích gạo cho Thánh ăn, thợ thì rèn áo giáp sắt, ngựa sắt, và gậy sắt.” Mật mã cơ bản của đoạn này là gom lại, là tích tụ.

Hành Thủy: Khi mọi thứ đã đầy đủ Thánh vươn vai từ đứa bé con ba tuổi trở thành một tráng sỹ, nhẩy lên ngựa, phi ra trận địa. Mật mã của đoạn này là tản năng lượng (vật chất và tinh thần) ra thành hành động vươn mình trở thành tráng sỹ.

Hành Mộc:Thánh phi ngựa, xông vào đoàn quân giặc, vung gậy sắt đánh kẻ thù. Mật mã của đoạn này là tổ hợp các động từ phi, xông, vung,.. Một tập hợp các hành động biến ảo, sáng tạo, tuy vậy vẫn tuân theo một qui trình nào đó.

Hành Hỏa:Hỏng gậy sắt Thánh nhổ tre đằng ngà thay. Ngựa sắt phun lửa làm thân cây tre cháy vàng, nay vẫn còn các vệt sọc vàng xen các vệt sọc đen trên thân các cây tre đằng ngà đó. Gậy tre đủ cứng, đủ dẻo dai hơn gậy thép, mà lại dễ làm, ai cũng có thể chế tạo được. Và chắc là lúc đó ngoài một người một ngựa của Thánh còn ngàn vạn người dân người lính khác nữa. Mật mã của đoạn này là sự hoàn thiện một quá trình, sự đóng góp của người khác nữa vào quá trình sáng tạo của mật mã đoạn 3.

Hành Thổ: Thánh về trời. Các vết chân ngựa sắt của Thánh nay còn in lại thành các ao đầm vùng Sóc Sơn. Mật mã của đoạn này là sự tan rã, sự biến mất, nhưng vẫn để lại dấu vết. Dấu vết có thể là vật thể hoặc phi vật thể, có giá trị cho các ứng dụng, các phát triển về sau nữa.

Truyền thuyết Thánh Gióng có thể ra đời rất sớm, tương ứng với giai đoạn lịch sử nhà Ân bên Tầu. Cho nên có thể suy đoán Ngũ hành xuất phát ở Việt nam. Do đó, lại có thể kết luận nước ta là nơi phát minh ra học thuyết năm bước (ngũ hành) về sự vận động của các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Cũng vì vậy có thể xem Ngũ hành là tinh hoa văn hóa bậc nhất của dân tộc Việt nam ta.

Ví dụ 2. Tình yêu và gia đình

Hành Kim: Khi gặp một người bạn thấy cô ta hoặc anh ta đáng yêu thì bạn đang vào hành Kim rồi. Bạn đã tích cái hình ảnh, dáng vẻ, giọng nói, có thể cả nét duyên dáng hay mạnh mẽ của người ấy vào óc. Dần dần bạn tích thêm các đặc điểm về tính cách, gia thế, học thức của đối tượng, và thậm chí cả tiền tài nữa. Trong suốt quá trình tích bạn luôn so sánh, lựa chọn, phỏng đoán, cân nhắc…. Nếu quá trình này dẫn đến một kết luận là người ấy phù hợp với mình thì khối tình (Kim tình) trong bạn càng lớn dần lên.

Hành Thủy: Lúc bạn hướng ánh nhìn, ướm lời nói đến đối tượng là bạn đang vào hành Thủy. Bạn tản đến đối tượng tình cảm của mình. Đôi khi bạn còn làm mẽ, để gây sự chú ý ở đối tượng. Những hành động tán tỉnh đó, hoặc ào ạt bằng những lời có cánh, hoặc âm thầm kín đáo từ vài cánh hoa cau gói trong cái khăn tay, đều thuộc về hành Thủy. Bạn đang tản tình cảm ra, hướng tới đối tượng.

Hành Mộc: Khi đối tượng ăn ý với bạn, nhận tín hiệu của bạn thì giữa hai người đã nẩy sinh hành Mộc. Một cái gì đó mới toanh đã hình thành. Nếu cái đó lớn dần lên thì gọi là tình yêu. Tình yêu đến độ chín thì quá trình đã chuyển sang giai đoạn Mộc vượng, không còn là một mầm tình non nữa. Lúc đó những lời gièm pha bên ngoài, thậm chí sự can ngăn của phụ huynh cũng ít giá trị.

Hành Hỏa:Mộc vượng sẽ sinh Hỏa. Hai người đó sẽ đi đến hôn nhân. Họ xây dựng một gia đình mới. Họ mua sắm đồ đạc, bếp núc, rồi sinh con, nuôi con, và đầu tắt mặt tối để duy trì kinh tế gia đình. Tất tật những giai đoạn xây dựng gia đình đó đều thuộc Hỏa. Những việc đó giống như duy trì ngọn lửa cháy ổn định để hành Hỏa luôn đạt trạng thái cháy đượm, không bị tắt.

Hành Thổ: Tình yêu có thể về Thổ ngay ở tuổi còn trẻ. Hai người sống với nhau một hồi, những khó khăn trong cuộc sống thực có thể làm chùng, dãn, thậm chí đứt phăng những sợi dây tình cảm. Hai cá thể vốn quấn quít vì tình thời gian trước đây bây giờ chia lìa. Ai mà duy trì được những sợi dây tình đến ngoài sáu mươi tuổi, thì là được trời ban cho hạnh phúc nhiều lắm đấy. Chắc các cụ kiếp trước đã tu hành đến độ cao siêu.

Tất nhiên trong Thổ lại tích Kim. Người ta lại bắt đầu một vòng Ngũ hành tình cảm mới. Các cụ ông cụ bà được trời ban chữ Phúc thì tích Kim tình cảm nơi con cháu. Các vị trẻ tuổi mà tình đã về Thổ, thì lại tích Kim nơi các ánh mắt u buồn tập hai, tập ba...

Ví dụ 3. Nước Việt

Nước Việt Nam vào hồi đầu thế kỷ 20 thuộc hành Thổ. Lúc ấy các phong trào kháng Pháp đã bị dập tắt. Cả nước gần như im lặng chịu sự khai phá thuộc địa. Khoảng năm 1925 có phong trào thanh niên cách mạng đồng chí hội. Hành Kim đang dần dà được khởi động. Đó là trạng thái của quá trình thu luyện năng lượng, tìm tòi phương pháp đấu tranh mới. Lúc đó, có sự tích tụ âm thầm các cá nhân yêu nước thành các tổ chức đấu tranh mới. Tiếp theo, là hành Thuỷ, khi mà các chi bộ dần dần phát triển, cấy sâu vào các khu vực, các vùng nông thôn và thành thị. Khi các chi bộ đã lớn dần thì tạo thành mạng lưới, các khu uỷ, các vùng an toàn khu, dần dần có các lực lượng vũ trang nhỏ (Ba tơ, Bắc Sơn, Tuyên Quang,…). Lúc đó là thời của Mộc. Lực lượng cách mạng ngày càng mạnh tức Mộc ngày càng phát triển. Cách mạng 1945 là thời của Hoả, thời của một trạng thái bừng bừng, sôi động. Trạng thái Hỏa của nước Việt duy trì mãi đến sau năm 1975. Trong mấy chục năm đó, người người bừng bừng ra trận, náo nức tham gia các phong trào kiến quốc và cứu nước như ba sẵn sàng, ba đảm đang,…

Các ví dụ khác về sự vận động của lịch sử Việt nam đều là các minh họa về Ngũ hành rất sống động, chẳng hạn các giai đoạn tụ nghĩa của Khúc Hạo, Trần Thủ Độ, Lê Lợi, Nguyễn Hoàng là hành Kim. Các giai đoạn phát triển sau đó đều diễn ra đúng trình tự tản Thủy, Sinh Mộc, hoàn thiện Hỏa rồi về Thổ. Lịch sử cũng chỉ ra rằng đối với các triều đại kể trên khi về Thổ thì rất điêu tàn và trong lòng Thổ lại tụ sinh tích Kim các nhân tố mới cho các quá trình lịch sử tiếp theo.

Các ví dụ trên đủ cho ta nhận thức được về sự vận động theo Ngũ hành. Trong đó giai đoạn này nối tiếp giai đoạn kia. Không thể dùng ý chí chủ quan mà đi tắt, mà đốt cháy lịch sử, đặc biệt muốn cho sự phát triển của Hỏa được bền vững thì luôn luôn phải tích KIM. Tích KIM là cơ sở quan trọng bậc nhất cho mọi sự phát triển, và cũng là điểm khởi đầu của mọi sự phát triển. Hình 1 mô tả các vòng Ngũ hành liên tiếp theo lý thuyết mới. Ngẫm nghĩ kỹ càng chúng ta sẽ thấy không có một sự vận động nào trong vũ trụ đi ra ngoài năm bước vận động Ngũ hành này được.

Hình 1. Năm giai đoạn của phát triển. Tích Kim là điểm khởi đầu của vòng phát triển. Thu vào (Kim), tản ra (Thủy) và sinh mới (Mộc) là ba giai đoạn phát triển đi lên. Hỏa là sự hoàn thiện. Tại hành Hỏa có lối rẽ, hoặc là đi vào vòng mới, hoặc là trở lui về tro tàn của hành Thổ. Tích Kim liên tục sẽ tạo nên sự phát triển bền vững. Nhưng trong tro tàn của Thổ cũng sẽ có tích Kim, nhưng thụ động và khó khăn.

Tóm lại lý thuyết Ngũ hành cho chúng ta một cái nhìn động về sự vận động và phát triển. Mọi sự phát triển đều có điểm gốc là tích Kim. Hành Kim tích được càng nhiều, càng bền vững thì các bước phát triển tiếp theo càng bền vững. Đặc biệt khi đã đạt đến trạng thái Hỏa thì nhất định phải tìm kế để tích Kim các vòng mới. Vì nếu không sẽ lâm vào trạng thái Thổ.

Có thể tóm tắt lý thuyết Ngũ hành mới thành các định đề sau:

1.Tất cả các sự vật trong tự nhiên và xã hội đều vận động theo Ngũ hành, và mọi sự vận động đều bắt đầu từ hành Kim.
2.Ngũ hành chỉ là 5 biểu tượng về 5 giai đoạn biến đổi và vận động của sự vật. Năm giai đoạn đó gọi là 5 phép chuyển hóa của tự nhiên. Không có một quá trình vận động nào ra khỏi 5 phép vận động ấy.

Tuy lý thuyết Ngũ hành phức tạp, nhưng nó có cái đẹp giản dị của một học thuyết lớn. Cái đẹp ấy nằm ở hai hành đầu tiên: hành Kim và hành Thủy. Kim là tích vào và Thủy là tản ra. Tích và tản tạo thành một nhịp điệu. Mà nhịp điệu là mối tương quan giữa dài và ngắn, giữa nhanh và chậm, giữa mạnh mẽ và nhẹ nhàng, giữa rõ ràng và mờ ảo,… Chính vì vậy nhịp điệu là nguồn cơn và gốc rễ của nghệ thuật. Do vậy, sách này sẽ tập trung nghiên cứu nhịp điệu tích/tản, để từ đó tìm hiểu một số vấn đề khác, phức tạp hơn và chắc là sẽ hấp dẫn hơn.

Câu hỏi:

1.Tại sao coi Ngũ hành là vòng luân chuyển lại lấy khởi đầu là hành Kim?
2.Nếu coi Ngũ hành là quá trình năm bước chuyển đổi từ âm sang dương hoặc ngược lại thì Thuyết Ngũ hành và Thuyết Âm Dương có phải là một không?


[1]. Nguyến Hiến Lê, “Lão tử Đạo Đức Kinh”, NXB Văn hóa, Hà Nội 1994

Nguồn:
FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Luận giải triết học Đông Tây vào cuộc sống

    05/07/2017Nguyễn Tất ThịnhTôi trình bày ngắn gọn về Ngũ Hành - Một tư tưởng triết học Cổ điển nhưng vô cùng tinh tế khúc triết của cả Hai Nền Triết Học Đông Tây để luận giải thêm quan niệm về Cuộc Sống với quá trình nội tại của nó và với Thế Giới. Mọi luận thuyết thực sự trở nên có ý nghĩa với Con Người khi mỗi người có thể hiểu đúng, tích cực về nó trong Cuộc Sống của mình...
  • Ngũ hành và khoa học

    09/11/2015PhD. Nguyễn Thế HùngHọc thuyết Ngũ Hành có vài ngàn năm tuổi. Cái tuổi đó được xem là bền vững. Nhưng Học thuyết ấy rất huyền bí, bị khoa học hiện đại xem là nhảm nhí, đôi khi phản khoa học nữa. Thực tế, chúng ta đang quay lưng lại với Ngũ Hành và quay lưng lại với một "khái niệm văn hóa đã và đang bền vững"...
  • Phong Thủy của nền kinh tế tri thức (2 phần)

    23/02/2009Thu San Nguyễn Thế HùngBài viết góp đôi ý kiến về Phong Thuỷ của nền kinh tế, tuy hai lĩnh vực đó (Kinh Tế và Phong Thủy) khá xa nhau. Vậy để tiện đường tham khảo, trước hết chúng tôi trình bày vài khái niệm cơ bản của Phong Thuỷ theo ngôn ngữ mới, sau đó dùng các khái niệm ấy để xét về Phong Thuỷ của nền kinh tế Việt Nam trong thời hiện tại, đặc biệt trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay...
  • Ngũ hành nhịp điệu sáng tạo

    09/01/2009Thu San Nguyễn Thế HùngHọc thuyết Ngũ hành có thể xuất phát từ một nền văn hóa lớn như Trung Hoa, cũng có thể xuất phát từ Việt Nam, nơi sản sinh truyền thuyết Thánh Gióng. Học thuyết này kết hợp với học thuyết Âm Dương, có thể cho phép chúng ta đi sâu vào nhiều vấn đề quan trọng của nhận thức.
  • Giáo dục và Ngũ hành

    11/07/2008Thu San Nguyễn Thế HùngTừ phương diện tổng thể xã hội, chúng ta còn có thể so sánh đại học với một số mô hình khác, chẳng hạn theo mô hình Ngũ hành...
  • Luận thêm về thuyết Ngũ hành

    19/06/2008PhD. Nguyễn Thế HùngMột cách tự nhiên nhất và khoa học nhất chúng ta có thể hỏi: Tại sao cổ nhân cứ qui các vật, các khái niệm trên đời này về Ngũ hành? Tại sao phép gán đó lại có thể là chỗ dựa cho các tư duy? Tại sao thầy thuốc dùng Ngũ hành lại có thể chẩn bệnh chính xác, chữa bệnh hiệu quả?
  • Thuyết âm dương - ngũ hành trong “Hải thượng y tông tâm lĩnh” của Lê Hữu Trác

    11/05/2007Đoàn Quang ThọThuyết âm dương - Ngũ hành sau khi vào Việt Nam đã được các nhà tư tưởng Việt Nam tích cực tiếp nhận và vận dụng hết sức sáng tạo trong thực tiễn. Một trong những tấm gương tiêu biểu của sự vận dụng sáng tạo thuyết âm dương - ngũ hành vào việc phát triển nền y học nước ta là đại danh y, nhà lý luận y học Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, với tác phẩm y học đồ sộ Hải Thượng Y tông tâm lĩnh,gồm 28 tập, 66 quyển.
  • Sự thật về thuật phong thủy?

    07/01/2007Đỗ Hoàng GiangKhổ lắm, nói mãi, nhàm tai... nhưng có vẻ như chẳng mấy ai biết rõ cái bí mật này, mà có biết vẫn... dịđoan mới lạ!Rõ ràng là quan điểm gió- nước của người xưa nặng về mê tín dị đoan, xây dựng theo trí tưởng tượng để tự an ủi về những hiện tượng thiên nhiên khắc nghiệt và tai hại mà tri thức thời ấy không thể giải thích nổi...
  • xem toàn bộ