Mode và sự hoàn thiện thẩm mỹ

09:00 CH @ Thứ Năm - 07 Tháng Chín, 2006
Với ý nghĩa con người và xã hội của nó, có thể coi mode là một sinh hoạt văn hoá thường nhật, sinh động của xã hội hiện đại, nên có thể tiếp cận mode từ những phương diện văn hoá khác nhau. Và cuộc trò chuyện giữa phóng viên với cây bút lý luận - phê bình văn học Nguyễn Hoà dưới đây là một trong nhiều phương diện tiếp cận đó.

- PV: Trong công việc chuyên môn, dường như anh có sự quan tâm nhất định tới văn hóa và một số vấn đề của văn hóa Việt Nam đương đại?

- Nguyễn Hòa (NH): Vâng, tôi vốn là giảng viên ngành văn hóa học, về sau do thích thú với văn chương, nên tôi chuyển sang làm lý luận - phê bình. Nhưng thật ra trong thâm tâm, tôi thấy mình vẫn có nhiều duyên nợ với văn hóa, và vẫn quan tâm tới một số vấn đề.

- PV: Như vậy mode có nằm trong những vấn đề mà anh quan tâm hay không?

- NH: Có chứ, nếu không nói là tôi rất quan tâm. Văn hóa luôn luôn vận động và biến đổi, thường thì chúng ta chỉ nhận ra sự biến đổi sau khi một quá trình văn hóa đã diễn ra, nhưng nếu quan sát trực tiếp và cụ thể, có thể thấy văn hóa đang chuyển dịch hàng ngày, nếu không có các chuyển dịch nho nhỏ và từng bước này sẽ không có biến đổi của cả quá trình. Theo tôi, chuyển dịch của văn hóa được thể hiện một phần qua những biến đổi của mode. Từ ngôi nhà cấp bốn đến toà nhà ba bốn tầng, từ chiếc xe đạp cọc cạch đến chiếc xe máy phóng vi vu, từ ti-vi đen trắng đến ti-vi màu,… không chỉ là chuyện riêng của cá nhân, của gia đình, chúng còn là chuyện của xã hội. Nhất là khi chúng ta không chỉ thấy mode trong trang phục mà mode có mặt từ mua sắm vật dụng, đồ trang sức, phương tiện đi lại, xây dựng nhà cửa, đến dáng đi kiểu đứng, đầu tóc, lời ăn tiếng nói… Tóm lại, ngày nay mode đã thâm nhập vào mọi ngóc nghách của sinh hoạt xã hội, và qua mode có thể hiểu nhiều điều về xã hội.

- PV: Với mode trong trang phục, có một thời chúng ta vẫn coi đó như là loại hiện tượng bất thường, ngày nay thì mode đã trở thành bình thường. Theo anh điều gì đã xảy ra trong khoảng thời gian để mode từ bất bình thường trở thành bình thường?

- NH: Tôi nghĩ chủ yếu do quan niệm, và phần nào còn do điều kiện kinh tế. Nhu cầu làm đẹp mình, làm đẹp xã hội là nhu cầu lành mạnh, chính đáng của con người ở mọi thời đại. Ngày xưa, các cụ cũng có mode của các cụ đấy chứ. Áo tứ thân, áo mớ ba mớ bảy, yếm đào, thắt lưng hoa lý, nón quai thao, xà tích, guốc kinh… của phụ nữ; ô đen, khăn xếp, áo the… của nam giới là mode của một thời.

Về tiết tấu của sự biến đổi, giữa mode ngày xưa với mode hôm nay khác nhau chủ yếu ở chỗ: ngày xưa mode hầu như chỉ có một mô hình và ít biến đổi nên dễ đơn điệu. Vào ngày trảy hội, cô gái (nếu cô còn sống thì ít nhất cũng quãng tuổi cụ của tôi bây giờ!) mặc áo mớ ba mớ bảy chính là muốn làm đẹp mình trước đám đông, giống như mẹ của cô, bà của cô, cụ của cô… đã mặc từ xuân này sang xuân khác. Nhiều lớp áo cánh màu sắc sặc sỡ khác nhau làm cô gái giống như bông hoa, ai mà chẳng muốn ngoái cổ nhìn theo. Hôm nay các cô gái vẫn có nhu cầu tương tự, trong khi quan niệm chung của xã hội đã cởi mở hơn, kinh tế khấm khá hơn, vật liệu may mặc cũng phong phú hơn… Tất cả đã giúp cho mode có điều kiện biến đổi thường xuyên, tạo ra sắc diện của sự đa dạng. Để mô tả trang phục trong một sinh hoạt có tính lễ hội, như đêm giao thừa xung quanh Hồ Gươm chẳng hạn, có lẽ một cuộc phỏng vấn cũng không “tải” hết được, vì mode quá sinh động và phong phú.

Xét theo thời gian, mấy chục năm trước mode ở miền Bắc cũng khá đơn giản. Đầu những năm 60 của thế kỷ XX ở Hà Nội, chị em thường mặc áo sơ-mi có cổ kiểu lá sen to loè xoè, nếu là áo cánh thì cổ viền khá cầu kỳ. Các chị có mái tóc phi-dê (frisé) bị xem là kỳ lạ, cánh trẻ con vẫn châm chọc bằng cách ngêu ngao pha phách lời một bài hát thành: “người phi-dê trông cao bồi, người phi-dê trong chán ghê”! Thanh niên con trai thì quần xanh, áo sơ-mi trắng, miệng túi áo có gài chiếc bút Kim tinh vàng choé, lại thập thò bóng dáng đồng tiền giấy 10 đồng.

Thời ấy cũng vui. Tôi thấy có cụ ông đi chơi ở Bờ Hồ, trên mặc vét-tông dưới lại mặc quần ta trắng, chân đi giầy “giôn”. Cuối những năm 60 đầu năm 70, mode của thanh niên đứng đắn là quần kaki, anh nào sang thì may bằng simili. Quần may theo lối cạp liền, có ly hoặc “xăng” ly, có anh lại dùng quai-nhê và nhất thiết quần phải có túi nắp. Áo sơ mi trắng cũng có túi nắp.

Anh nào ngổ ngáo, tay chơi thì quần xanh công nhân ống “tuýp” bó chặt lấy ống chân, áo Tô Châu của bộ đội dài lụng thụng đến tận đầu gối, đầu đội mũ lưỡi trai. Đi xe đạp Phượng hoàng xích hộp phải chìa đầu gối ra hai bên, anh nào chân ống lau ống sậy mà chìa đầu gối “củ lạc” ra thì trông như hai cái… tên lửa!

Sau 1975 thì xuất hiện quần ống loe, áo đuôi tôm may chẽn bó lấy eo, trông hơi ẻo lả. Chị em thì mặc quần “ống xéo”, mẹ tôi làm thợ may, tôi thấy có người đến may quần có ống rộng tới hơn 40 cm. Ấy là chưa kể đến mode áo “phông Lào”, dép “tông Thái”…

Những mode này kéo dài vài ba năm mới thấy thay đổi. Nhưng từ quãng giữa những năm 90 trở lại đây thì tôi… chịu! Dù chăm chú quan sát, tôi cũng không thể theo kịp với biến đổi nhanh chóng của mode trong trang phục.

Kể với bạn một câu chuyện mà nhớ lại tôi vẫn thấy buồn cười. Chẳng là ngày còn nhỏ, ngoài giờ học, tôi hay ngồi bên máy khâu để “trần quả trám” áo lót của chị em. Mẹ tôi may hàng trăm chiếc rồi đi giao ở Hàng Ngang, Hàng Đào. Áo này có hai loại, loại “xịn” thì lớp ngoài may bằng vải pôpơlin trắng, loại bình thường thì lớp ngoài may bằng vải phin trắng. Chỉ có lớp ngoài là khác, còn ba lớp ở bên trong thì giống hệt nhau, một lớp bằng vải vụn ghép lại, một lớp bằng… ni-lông dày cộp, lớp cuối cùng là diềm bâu! Bốn lớp đều cắt theo hình lục lăng, trần quả trám xong thì cuốn lại, trông như cái phễu. Vừa nhọn vừa cứng nên áo sơ mi, áo cánh của nhiều chị bị thủng hai lỗ phía trước và phải… mạng! Bây giờ có hôm tôi tò mò ngó vào shop bán quần áo lót mà hoa hết cả mắt. Tuy nhiên xem ra mức độ “nguy hiểm” vẫn chưa thuyên giảm, vì tôi thấy có loại áo lót có lồng cả… gọng sắt!

- PV: Quan sát như vậy, anh có nhận xét gì về mode trang phục hiện nay?

- NH: Tôi cho rằng về trang phục, nhiều người trong chúng ta chưa được trang bị những tri thức cơ bản về điều mà tôi xin tạm gọi là “văn hoá mode”, và còn phải kế đến việc nhiều người trong chúng ta chưa có thói quen tự đánh giá các mặt mạnh - yếu về nhan sắc và hình thể của bản thân mình.

Sùng bái mode, chạy theo mode đang là xu hướng có thật, nhất là trong giới trẻ. Mà thường thì khi đã sùng bái mode, đã chạy theo mode thì người ta không chú ý tới sự lựa chọn thẩm mỹ có ý nghĩa cá tính. Nói cách khác là không coi mode đã tham gia vào sự hoàn thiện thẩm mỹ của cả cá nhân và cộng đồng.

Thí dụ, có những cô gái người cao ráo, cân đối, trắng trẻo mặc quần bò trễ, áo phông ngắn trông cực đẹp, nhiều lúc đi ngoài đường tôi ngắm không biết chán, may mà chưa húc phải cột điện! Nhưng lại có cô gái mặc quần bò trễ, áo phông ngắn, người lại gày tong teo, eo ót đầy sẹo với cả dãy nốt gì đo đỏ như muỗi đốt mà cũng khoe ra thì quá lả phản cảm.

Một hôm tụ tập với bạn bè ở một nhà hàng ngồi dưới sàn theo kiểu Nhật Bản, cô gái ngồi mâm đối diện quay lưng lại phía tôi. Mỗi lần nhìn thẳng là đập vào mắt tôi một khoảng lưng to bằng nửa tờ giấy A4 vừa đen vừa loang lổ, ăn mất cả ngon!

Tâm lý đám đông chi phối sở thích mode đã làm cho nhiều người không biết rằng mode còn có vai trò hạn chế đến mức tối thiểu các điểm yếu và khuếch trương đến mức có thể các điểm mạnh của hình thể mỗi người, và tạo ra sự hấp dẫn. Lại nữa là màu sắc, là đường kẻ, là khuy, khuyết… Khi nào có điều kiện, tôi với bạn bàn về váy mới vui. Ở Việt Nam ta, từ ngày xưa đã có câu đố: “Cái thúng mà thủng hai đầu - Bên ta thì có bên Tầu thì không”, và đến bây giờ, “cái thúng” ấy xem ra cũng phức tạp ra phết!

- PV: Xin cảm ơn anh, chúng ta sẽ trở lại với đề tài này trong một ngày gần đây!
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Thẩm mỹ

    15/10/2014Nguyễn Trần BạtNói đến thẩm mỹ không thể không nói đến khái niệm cái đẹp. Nhưng đó là một câu hỏi làm đau đầu biết bao nhiêu nhà triết học thuộc đủ mọi quốc gia, sống ở mọi thời đại trong lịch sử...
  • Biện chứng cá nhân – xã hội trong cảm thụ thẩm mỹ

    12/02/2006TS. Lê Đinh LụcCảm thụ thẩm mỹ là hoạt động mang đậm dấu ấn cái "tôi" cá nhân của chủ thể, gắn liền với những năng lực tinh thần chủ quan, với tình cảm, thị hiếu của mỗi người...
  • Giá trị thẩm mỹ và chất lượng nghệ thuật

    20/12/2005Nguyễn Văn PhúcTrên bình diện đánh giá - giá trị, chất lượng nghệ thuật của một tác phẩm được hiểu là giá trị nghệ thuật của tác phẩm đó. Nhưng bản chất của giá trị nghệ thuật là gì ? Nói khác đi những yếu tố nào quy định giá trị của tác phẩm nghệ thuật, và do đó, như thế nào là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị? v.v... Đó là những câu hỏi không dễ giải đáp.
  • Văn hoá mỹ thuật không thể không sốt ruột

    24/05/2005Nhà phê bình Nguyên HưngKhông được dẫn dắt bởi một cách thức tư duy mới, số đông nghệ sĩ, đã không biết khai thác năng lượng ở đâu cho sự sáng tạo, không biết làm thế nào để bảo toàn nguồn năng lượng vốn có...
  • Mỹ thuật Việt Nam — Nhân vật còn thiếu...

    24/05/2005Nguyên HưngĐến lúc này, dường như, chúng ta đã có thể nói về một sự đứt đoạn trong các quan hệ văn hóa mỹ thuật. Hầu như ai cũng cảm thấy mỹ thuật là cần thiết như một nguồn năng lượng làm gia tăng giá trị cuộc sống, làm gia tăng các khả năng thích nghi với cuộc sống đương đại..., nhưng đồn