Mỹ thuật Việt Nam — Nhân vật còn thiếu...
Đến lúc này, dường như, chúng ta đã có thể nói về một sự đứt đoạn trong các quan hệ văn hóa mỹ thuật. Hầu như ai cũng cảm thấy mỹ thuật là cần thiết như một nguồn năng lượng làm gia tăng giá trị cuộc sống, làm gia tăng các khả năng thích nghi với cuộc sống đương đại… (Lưu ý, người ta vẫn nhìn nhận, đánh giá nhau qua “cái răng, cái tóc”; từ lâu, giá trị mỹ thuật đã trở thành tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa… v.v…) nhưng đồng thời, ngược lại, chẳng có mấy ai thực sự quan tâm, tiếp cận mỹ thuật trong một ý hướng chủ động, tích cực. (Nhiều họa sĩ đã lên tiếng đòi hỏi Hội mỹ thuật, các nhà phê bình phải “định hướng” cho sáng tác; nhiều họa sĩ chỉ chạy theo nhu cầu thị trường, hết bán được tranh thì cũng thôi không vẽ nữa; với số đông công chúng, mỹ thuật là thứ “kính mà không dám đến gần”, thực tế là không hiểu, không biết nên không tiếp cận; về phía Nhà nước, chỉ quan tâm đến khía cạnh chính trị của sinh hoạt mỹ thuật, đến nội dung tư tưởng của tác phẩm v.v…; với các gallery thì chỉ có vấn đề lợi nhuận-bán được tranh thì tiếp tục bằng không đóng cửa; giới phê bình hầu như bặt tiếng v.v…).
Số lượng nghệ sĩ của chúng ta khá đông đảo, nhưng dường như chẳng có mấy người có thể đưa được tác phẩm của mình hòa nhập vào đời sống xã hội (Với công chúng Việt Nam, về mỹ thuật, đa số chỉ biết vài cái tên nghệ sĩ và gắn liền với mỗi cái tên là vài câu chuyện, vài giai thoại là cùng. Sinh hoạt mỹ thuật, thường, chỉ dừng lại trong các khuôn khổ “salon”), càng hiếm hoi hơn những người có thể sống và cống hiến với trọn vẹn bản chất nghệ thuật của mình — đã luôn luôn có một sự thỏa hiệp nào đó…( Rất hiếm nghệ sĩ sáng tạo “như một cuộc phiêu lưu”. Đa số, hoặc “phục vụ” cho cái này, hoặc “phục vụ” cho cái kia…)
Chúng ta, có thể giải thích nguyên nhân thực trạng này, bằng phân tích về sự yếu kém của hoạt động phê bình và thông tin tuyên truyền nghệ thuật (Không kích thích nhu cầu và khai mở ý thức sáng tạo nơi các nghệ sĩ, khộng có khả năng làm cho công chúng yêu thích và hiểu biết mỹ thuật hơn, không thuyết phục được các nhà quản lý công quyền trong việc định hướng v.v…), về sự tự phát, manh mún với tầm nhìn và quan hệ hạn hẹp của các gallery trong nước (Đa số các chủ gallery không hiểu cái đặc thù của công việc kinh doanh nghệ thuật. Đa số, chỉ vì một chút hiểu biết về mỹ thuật, tiếp cận được với họa sĩ, có vốn và quảng giao, ngẫu hứng mà làm hay thấy người khác thành công mà làm chứ hiếm khi có “triết lý”, có chiến lược riêng mà làm…); về sự thụ động hay bất cập của bản thân các nghệ sĩ trong việc truyền thông công việc và nghệ thuật của mình (Đa số các họa sĩ vẫn quan niệm “hữu xạ tự nhiên hương” - ai biết thì đến. Vậy thôi. Đa số ngại và không biết cách tự giới thiệu về mình. Ngay cả việc họ hay làm là tổ chức triển lãm, họ cũng chỉ nghĩ đơn giản là xin giấy phép, thuê mặt bằng, mang tác phẩm ra bày, là hết, còn lại, từ việc đặt tên cho triển lãm, thậm chí cả việc đặt tên tranh, in thiệp mời hay brochure, catalog giới thiệu đều làm hết sức tùy tiện),v.v… Tuy nhiên, qua thực tế quan sát bao nhiêu năm, có thể nói, quan trọng hơn hết là trong cơ cấu văn hóa mỹ thuật của chúng ta, đã và đang thiếu một thành phần trung gian làm cầu nối cho tất cả. Đó là thành phần những người làm công việc phát hiện và tiến cử nghệ thuật.
Thời bao cấp, dường như, còn có người làm. Dĩ nhiên, đó là kiểu rất riêng của thời quản lý tập trung - thể hiện ở nội dung và cung cách sinh họat Hội (Mỹ thuật), một tổ chức chính trị.[1] Bây giờ, thể chế này, về cơ bản đã hết thời…
Bù vào cái khoảng trống đó, kể từ thời “đổi mới”, là sự có mặt của một vài curators người nước ngoài. Những người đã có công giới thiệu một bộ phận mỹ thuật Việt Nam ra thế giới, và đa số trong họ, cũng là những người tạo ra một cách hiểu sai về mỹ thuật Việt Nam, kích thích một cung cách vận động “lệch chiều” trong mỹ thuật Việt Nam.[2]
Ở Việt Nam, cho đến nay, curators vẫn là một nghề nghiệp, thậm chí là một khái niệm lạ. Trong khi đó, qua khảo sát các thiết chế văn hóa mỹ thuật ở nhiều nơi trên thế giới ngày nay, có thể nói, vai trò hoạt động curators có ý nghĩa kết nối và thúc đẩy rất lớn cho sự vận động của một nền nghệ thuật. . (Curator có thể làm việc cho một gallery, một bảo tàng, một trung tâm nghệ thuật, nhưng cũng có thể hoạt động hoàn toàn độc lập. Sự đa dạng về vị trí, về cung cách hoạt động đã tạo nên sự đa dạng và không khí sôi động cho một nền nghệ thuật. Sự đa dạng và tích cực của hoạt động curators mang lại cơ hội cho mọi nghệ sĩ. Chính nhờ vào các curators mà các nghệ sĩ tài năng ngày nay không còn phải ở lâu “trong bóng tối” nữa. Thế giới nghệ thuật đương đại, có thể nói, là thế giới của các curators. Chính họ là những người mang lại cho mọi người một hình dung về thế giới nghệ thuật đương đại…)
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc Hiếu“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Con người hiểm độc
01/01/1900Phạm QuỳnhCơ hội thứ tư - toàn cầu hóa
18/04/2004Nguyễn Trần BạtThấy gì qua lối sống sinh viên thời nay?
21/10/2003Trương HiệuClip: Chúng ta luôn bên nhau
01/01/1900Protagoras và khai minh Hy Lạp
01/01/1900Bùi Văn Nam Sơn