Chủ nghĩa hiện sinh, nhìn từ góc độ văn hóa học
Gần đây, chúng ta có cảm tưởng rằng, chủ nghĩa hiện sinh đã thuộc về đĩ vãng và tất cả về chủ nghĩa hiện sinh đều đã rõ ràng. Đánh giá như vậy là xác đáng, nếu nhìn nhận chủ nghĩa hiện sinh từ góc độ văn bản học và
Để làm sáng tỏ một nhận định như vậy,
Vấn đề là ở chỗ, có thể đọc các cuốn sách kinh điển về chủ nghĩa hiện sinh, tự lựa chọn cho mình một người "bảo hộ tinh thần", thí dụ Xáctơrơ hay là Giaxpe, và tự tuyên bố mình là người theo chủ nghĩa hiện sinh nhờ phát triển một tư tưởng nào đó của người có quyền uy tinh thần ấy. Nhưng,
Hơn nữa, sự không có ý thức về lĩnh vực hiện sinh chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến nhiều công trình nghiên cứu chẳng có chút bản sắc nào về chủ nghĩa hiện sinh. Vả lại, không có kinh nghiệm hiện sinh của cá nhân thì chủ nghĩa hiện sinh sẽ lại bị coi là một trong vô số sự xuyên tạc đối với các vấn đề truyền thống của triết học. Trong trường hợp này, chủ nghĩa hiện sinh lại bị quy về phong cách tư duy truyền thống: đây là bản thể luận, kia là nhận thức luận, kia nữa là đạo đức học và triết học xã hội của chủ nghĩa hiện sinh! Chủ nghĩa hiện sinh được lĩnh hội thông qua
Người ta thường cho rằng, khủng hoảng hiện sinh là sự làm mất ý nghĩa của cuộc sống. Nhưng,
Tình huống khủng hoảng hiện sinh chỉ thật sự phát sinh do sự loại bỏ mọi thói quen, mọi khuôn mẫu ứng xử, mọi định hướng trước kia của con người, vì chính chúng đã đưa con người tới trình trạng bế tắc và đau khổ về cuộc sống hiện tại. Nhưng bản thân việc thể nghiệm khủng hoảng hiện sinh không nhất thiết phải luôn kéo
Tình huống khủng hoảng hiện sinh là thời điểm mà ở đó, con người phát hiện ra giới hạn không thể khắc phục được mà thực tại đã gán cho sự sinh tồn của nó, cũng như phát hiện ra giới hạn trong bản thân nó, tức là khi con người nhận thấy bản thân nó chỉ là một sự vật xuất hiện mà không có sự tham gia của ý thức và của sự hiện sinh của nó. Và, đây chính là tình huống mà con người thấy mình "bị bỏ rơi", trở thành "vô gia cư” và trở nên "cô độc". Nỗi đau tinh thần thức tỉnh con người thoát ra khỏi giấc mơ của sự sinh tồn quen thuộc và khởi xướng tự ý thức hiện sinh của nó: con người bỗng dưng phát hiện ra mình trong một thế giới xa lạ và lạnh nhạt, còn bản thân nó hoá ra cũng là một thực tại như vậy đối với ý thức hiện sinh của nó, một thực tại ham muốn nhiều thứ và cũng không thể đạt được nhiều thứ, và con người đáp lại mâu thuẫn ấy bằng những cơn bùng nổ của nỗi đau tinh thần. Trong tình huống ấy, con người bỗng thấy cần phải lựa chọn giữa sự sinh tồn vô vị và ý định vô vọng nhằm khắc phục thực tại đã có với hy vọng có được hạnh phúc và sự hài hòa. Tình huống này đã được G.P.Xáctơrơ mô tả rất đạt trong buồn nôn.
Sự khắc phục tình huống khủng hoảng hiện sinh không thể diễn ra nhờ các phương tiện sinh tồn quen thuộc của con người, vì chính sự phá sản của chúng đã dẫn tới sự vô vọng của khủng hoảng hiện sinh. Do vậy, cần tìm ra phương tiện mới, đưa tính tích cực của con người sang một bình diện khác trong việc làm chủ thực tại và bản thân mình. Tư duy có thể là một phương tiện như vậy.
Như vậy, có thể nói, việc thấu hiểu bản thân mình và tự do thay đổi lập trường hiện sinh của mình là mục đích chủ yếu của tư duy hiện sinh.
Nhưng, thực hiện sự thay đổi đó như thế nào, nếu chính bản tính cố hữu của chúng ta đứng đối lập với ý chí và ý thức, làm kiệt quệ ý chí khống chế ý thức bằng vô vàn phương thức? Đó chưa phải là tất cả. Khi quyết định tiến hành "cuộc cách mạng hiện sinh theo tôi, con người phải đấu tranh không những để chống lại cơ cấu hiện sinh trước đây của mình, mà còn chống lại bản thân văn hoá, chống lại các khuôn mẫu, các thần tượng đang thống trị trong ý thức xã hội.
Cái mà con người đấu tranh chống lại khi đi theo con đường "cách mạng hiện sinh", tức cơ cấu hiện sinh trước đó của nó, là kết quả của toàn bộ cuộc sống trước đó của nó, vì sự sinh thành, sự xã hội hoá của nó luôn được cố kết nhờ những chuẩn tắc và những giá trị văn hoá cơ bản. Đỉnh cao của văn hoá này là tư tưởng về cái thiện, về văn minh và trật tự xã hội, nhưng thực tiễn hàng ngày của nó lại là vô số những cấm đoán man rợ, những chuẩn tắc nghiêm khắc và những lý tưởng khô cứng. Ở cấp độ hoạt động hàng ngày, cái hợp lý, cái thiện, cái vĩnh hằng của văn hoá luôn chuyển biến một cách kỳ quặc thành chiếc gậy để áp chế cái hiện sinh. Do vậy, khi bị sa xuống đáy của cuộc khủng hoảng hiện sinh và cố vùng vẫy để thoát ra khỏi nó, hơn nữa là thật sự thoát ra khỏi nó để không bị sa xuống một lần nữa, con người nhất định sẽ xung đột với các tư tưởng và các định hướng chưa có sự phản tư của văn hoá đang thống trị. Văn hoá này, xét về bản chất của nó, là văn hoá tuyệt đối hoá, đánh giá mọi cái
Văn hoá này tạo ra sự xa rời đến mức khó có thể khắc phục giữa cuộc sống hiện thực, vô thức của con người với ý thức "quan phương" của nó. Cuộc sống hiện thực là biểu hiện của cái tự nhiên, cái bẩm sinh và có tính người đích thực, còn ý thức "quan phương" là kết quả của các cơ cấu đàn áp và của văn hoá xa rời hiện thực. Với sự sinh tồn thông thường, truyền thống thì con người ý thức rất kém về sự xa rời này, nó sống
Song, rốt cuộc thì cũng đã đến lúc con người cần phải rút ra kết luận từ cuộc rượt đuổi đầy đau khổ theo cái mà không thể đạt tới được, cần phải suy ngẫm về nguồn gốc của các lý tưởng và về cái giá mà con người cần phải trả cho chúng - toàn bộ cuộc sống phong phú và tiếp nhận một thế giới quan phù hợp hơn với hiện thực, có nhân tính hơn, ít tính áp đặt hơn.
Nhưng, hiện tại thì những "ảo tưởng" của nền văn hoá lý tưởng hoá, tuyệt đối hoá ấy vẫn còn là một gánh nặng không thể chịu đựng nổi đối với sự hiện sinh. Và, gánh nặng này chỉ trở nên rõ ràng vào thời điểm khủng hoảng hiện sinh của con người, khi con người ý thức được sự cần thiết phải cải biến triệt để và thật sự có hiệu quả toàn bộ lập trường hiện sinh trước đây của mình, thì khi đó, nó cũng ngay lập tức phát hiện ra rằng lập trường ấy đã được nền văn hoá đang thống trị thần thánh hoá và kiện toàn.
Nhưng, nếu con người vẫn có khả năng tìm ra sức mạnh để đấu tranh với bản thân mình, thì nó lại hoá ra là hoàn toàn bất lực khi phải đối mặt với nền văn hoá, vì con người phải xâm phạm đến các tư tưởng và các giá trị mà từ thời thơ ấu, người ta đã gieo vào đầu óc nó như là cái tuyệt đối hiển nhiên.
Như vậy, sự phân tích hiện sinh sớm hay muộn cũng tất yếu xung đột với cơ cấu giá trị - chuẩn tắc đã trở nên vững vàng của nền văn hoá hiện tồn. Xung đột này được định trước một cách dứt khoát bởi một thực tế là, sự phân tích hiện sinh thâm nhập vào chiều sâu của những sự kiện mà ở đó, sự phân biệt giữa cái thiện và cái ác, cái cao cả và cái thấp hèn, cái đáng trọng và cái không đáng trọng… không còn có một ý nghĩa gì và chỉ cản trở sự thấu hiểu một cách không thiên vị. Hơn nữa, những quá trình diễn ra ở cấp độ ấy của sự hiện sinh hoá ra là mang tính quyết định đối với quan điểm giá trị - chuẩn tắc mà cá nhân lựa chọn.
Chính vì vậy mà tư duy
Như vậy, sự phân tích về tư duy hiện sinh dẫn chúng ta tới một vấn đề là: văn hoá và sự hiện sinh đòi hỏi không những chỉ nghiên cứu sự hiện sinh, mà còn phải nghiên cứu cả văn hoá. Sự nghiên cứu này là cần thiết do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, chúng ta cần phải hiểu sự xuất hiện các hệ thống văn hoá thù địch với sự hiện sinh đã diễn ra như thế nào.
Thứ hai, khi vạch ra con đường khắc phục sự khủng hoảng hiện sinh, triết học hiện sinh phải xây dựng hệ thống các định hướng tinh thần đối lập với văn hoá hiện tồn, hệ thống có khả năng đảm bảo sự lựa chọn tự do, đồng nhất của con người - một kiểu hệ tư tưởng có khả năng tương đối hoá mọi hệ tư tưởng tuyệt đối hoá và mang tính áp đặt.
Thứ ba, trên thực tế, sự phân tích hiện sinh và văn hoá hiện tồn có thể được phản tư và tương đối hoá đã chỉ ra cho chúng ta thấy sự hình thành một lập trường đối lập với văn hoá hiện tồn trong chính khuôn khổ của nó. Chính việc làm sáng tỏ lập trường này và các cơ chế của nó cho phép chúng ta ý thức rõ hơn vị trí của sự phân tích hiện sinh trong động thái chung của văn hoá.
Có thể trình bày vấn đề như sau: nếu sự phân tích hiện sinh là một khuynh hướng cơ bản của văn hoá hiện đại, được thực hiện trong triết học, nghệ thuật, liệu pháp tâm lý, thì nó biểu thị các xu hướng nào của văn hoá ấy? Tại sao nó có khả năng biểu thị các xu hướng văn hoá và biểu thị như thế nào?
Ở đây, chúng ta cần phải hiểu thực chất của những quá trình văn hoá đã diễn ra trong thế kỷ XX. Không đi sâu vào vấn đề này, chúng tôi chỉ nêu đặc trưng khái quát của thứ văn hoá tuyệt đối hoá, lý tưởng hoá và của thứ văn hoá tương đối hoá để làm sáng tỏ bản chất của tư duy hiện sinh.
Đặc trưng cho thứ văn hoá tuyệt đối hoá là sự thiếu vắng các tiền đề để chủ thể có thể tự do khắc phục sự ràng buộc của mình với lĩnh vực mục đích nhờ tái định hướng ý thức của mình vào kế hoạch hoạt động đã được ghi nhận trong các khái niệm, là việc chủ thể không có khả năng giữ lập trường phản tư của người quan sát, giám sát bên ngoài đối với bản thân mình. Có thể nói, đặc điểm cơ bản của toàn bộ kinh nghiệm tự nhận thức truyền thống là ở chỗ, con người thật sự không có khả năng vượt qua hàng rào của những sự siêu hợp lý hoá đế đến với bản thân mình, đến với sự hiện sinh của mình. Khi cố hiểu một cái gì đó về mình, con người luôn bị sa lầy trong mạng lưới những chuẩn tắc, những giá trị, những quan niệm về nhân sinh quan của thời đại mình. Quá trình nhận thức của con người bị quy về việc hồi tưởng lại những sự kiện thuần tuý bên ngoài của tiểu sử cá nhân và sắp xếp chúng theo những dấu hiệu phù hợp hay không phù hợp với các giá trị được con người đó sử dụng, hoặc là về việc tìm kiếm những động cơ "tội lỗi" đã đưa họ tới chỗ thực hiện hành vi của mình. Con người không hề nhìn nhận cái tiềm thức của mình và không nhận thấy nguyện vọng và động cơ đích thực của mình. Ý thức truyền thống bị đóng khung trong những quan niệm thuần tuý bên ngoài và do vậy, lịch sử của con người bị quy thành một dãy những sự kiện trần trụi nối tiếp nhau.
Có thể coi văn hoá
Ở
Theo tôi, cơ sở xã hội của thứ văn hoá tương đối hoá là sự tách biệt tổng thể các cá nhân riêng biệt ra khỏi sự phân cấp xã hội, ra khỏi chỉnh thể xã hội và chỉnh thể tâm tính của chính con người, là sự biến nó thành các "nguyên tử" có chủ quyền và mang giá trị tự thân của chỉnh thể xã hội. Rằng, quá trình thế tục hoá có thể coi là nhân tố quyết định sự hình thành thứ văn hóa tương đối hoá. Nhưng sự thế tục hóa này chỉ trở nên có thể nhờ những biến đổi căn bản trong đời sống xã hội diễn ra trong suốt các thế kỷ XVI - XIX. Cho dù có thế nào đi chăng nữa thì kết quả chủ yếu của mọi quá trình ấy vẫn là sự đột phá ngày một mạnh mẽ hơn của lý tính đang phản tư về văn hoá vào lĩnh vực hiện sinh người hay nói cách khác, việc văn hoá thừa nhận giá trị và ý nghĩa của đời sống "trần tục" của con người.
Cấu trúc chương trình hiện sinh của văn hoá cũng có sự thay đổi về nguyên tắc. Sự tách biệt về mặt xã hội của con người ra khỏi chỉnh thể xã hội cũng kéo
Những giá trị, lý tưởng, chuẩn tắc trong thứ văn hoá tương đối hoá không còn là tuyệt đối nữa, vì con người đã giả định rằng, nguồn gốc của chúng không phải là Chúa, không phải là các quy luật tự nhiên và cũng không phải là bản tính loài của con người, mà là tính chủ quan của mỗi cá nhân - cái đem lại tính tương đối cho họ. Những giá trị, lý tưởng, chuẩn tắc ấy không còn là những cái có khả năng chế áp con người mà, giống như các hành tinh xoay quanh mặt trời, chúng xoay quanh mỗi con người. Sự thực hiện hay bài xích chúng chỉ phụ thuộc vào ý chí của mỗi con người.
Đương nhiên, tình hình nêu trên chỉ thế hiện rõ nhất trong lĩnh vực tinh thần, ở đỉnh cao của nền văn hoá nhân loại. Các tầng thấp của nền văn hoá ấy vẫn chịu sự chi phối của các chương trình hiện sinh của thứ văn hóa tuyệt đối hóa. Và, các chương trình này có lẽ không bao giờ bị loại bỏ dứt khoát, bởi chúng có mối liên hệ quá mật thiết với các cơ chế chủ yếu của quá trình tái sản xuất xã hội. ở đây, luôn diễn ra một sự "vượt bỏ" đặc biệt khi mà các hình thức mới của văn hoá chưa loại bỏ được các hình thức cũ, mà chỉ được tạo dựng ở bên trên chúng, một phần làm thay đổi, một phần đẩy chúng xuống lĩnh vực vô thức của văn hoá.
Như vậy, có thể nói, tư duy hiện sinh chỉ có thể có trong khuôn khổ của thứ văn hóa tương đối hoá và nó cũng chính là sản phẩm của thứ văn hoá này. Điều này là xác đáng trước hết đối với lập trường của tư duy hiện sinh, đối với những chuẩn tắc và những giá trị văn hoá khác nhau. Nói một cách hình ảnh, tư duy hiện sinh nằm ở phía bên kia của cái thiện và cái ác, ở bên ngoài sự phân biệt giữa cái thiện và cái ác. Điều đó không có nghĩa rằng, giống như học thuyết Nítsơ, nó tuyên bố "cái ác" là quy luật duy nhất có thể có của cuộc sống. Và, điều đó cũng không có nghĩa rằng, nó phủ nhận những phúc lợi được đạo đức đem lại cho cuộc sống con người. Hoàn toàn không phải là như vậy. Mọi thứ đều đơn giản và cũng đồng thời phức tạp hơn rất nhiều. Sự tương đối hoá những chuẩn tắc và những giá trị tuyệt đối,
Thứ nhất, với tư cách một chủ nghĩa nhân đạo mới, một hệ thống phát ngôn nhân đanh cá nhân, chủ nghĩa hiện sinh cố loại bỏ mọi lược đồ văn hoá mang tính tuyệt đối hoá nào đó, vì lược đồ ấy áp chế, đè nén tự do và tính nhất thể của con người. Và, xét về phương diện này, chủ nghĩa hiện sinh là kẻ thù không đội trời
Thứ hai, lập trường hiện sinh chủ nghĩa giả định phải tái hình thành những tiền đề cơ bản của tư duy đạo đức tự nó. Tư duy hiện sinh xa lạ với nỗi lo âu bất tận về trật tự trong vũ trụ, nỗi lo âu đẩy nhà triết học theo chủ nghĩa duy luân lý vào việc "bịa đặt” ra các hệ thống đạo đức ngày một mới hơn nhưng lại như là các cạm bẫy và dường như bắt buộc loài người "ngang ngạnh" phải hướng tới cái thiện bằng những phương thức "ranh mãnh" khác nhau. Chủ nghĩa hiện sinh không phủ nhận đạo đức Hơn nữa, nó thừa nhận sự cần thiết của đạo đức về mặt xã hội và coi hệ thống đạo đức cần được xây dựng phải phù hợp với sự cần thiết ấy. Với nghĩa đó,
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu Đổng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuBệnh sùng bái thần tượng và sự rối loạn của giáo dục
05/04/2019Hư học hư làm, hư tài
16/04/2014Có khi bi quan khi nhìn vào thực trạng văn hóa
12/04/2016Hồng Thanh Quang (thực hiện)7 nguyên tắc sống bất di bất dịch của Đại bàng
24/12/2015Bài học cuộc sống từ "Vua hề Sác-lô"
07/12/2015