Phan Khôi (1887 - 1959)
- Phan Khôi sinh ngày 6/10/1887 tại làng Bảo An, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Là con trai của Phó bảng Phan Trần, Tri phủ Diên Khánh và là cháu ngoại của Tổng đốc Hoàng Diệu, ngay từ nhỏ, Phan Khôi đã nổi tiếng là người thông minh, học giỏi và hay… lý sự! - Năm 1907, Phan Khôi ra Hà Nội tham gia công việc của Đông Kinh nghĩa thục. Nghĩa thục bị đóng cửa, ông đi Nam Định học chữ Pháp với Nguyễn Bá Học, vì nhà nho này bị mật thám Pháp theo dõi, ông phải trở về quê. - Năm 1909 Phan Khôi ra Huế xin vào học trường dòng Pellerin (của nhà thờ Ki-tô giáo), được vài tháng lại phải trở về quê vì ở nhà có đại tang. Lúc này ở Quảng Nam nổ ra phong trào “xin xâu” (biểu tình đòi giảm sưu thuế), Phan Khôi tham gia (có làm bài vè Dân quạ đình công), bị bắt và cầm tù tại nhà lao Hội An cùng Huỳnh Thúc Kháng và nhiều nhân sĩ khác. Trong tù tiếp tục tự học tiếng Pháp. - Năm 1913, được ra tù, Phan Khôi về nhà cưới vợ và mở lớp dạy chữ Hán tại nhà mình. Khi triều đình Huế bãi bỏ chế độ khoa cử chữ Hán, ông thôi dạy và khuyên học trò đi học chữ Quốc ngữ. - Năm 1916 Phan Khôi ra Hải Phòng làm thư ký cho Công ty vận tải đường thuỷ của Bạch Thái Bưởi, nhận thấy công việc ở đây chỉ để kiếm sống chứ không hợp chí hướng riêng nên đã xin thôi việc. - Năm 1918, do Nguyễn Bá Trác giới thiệu, Phan Khôi lên Hà Nội tham gia viết bài cho tờ Nam phong tạp chícủa Phạm Quỳnh. Được một thời gian, ông bỏ tờ báo này, vào Sài Gòn viết cho báo Lục tỉnh tân văn; vì có một bài có giọng “kịch liệt quá”, ông thôi việc ở tờ này. - Năm 1920, Phan Khôi trở ra Hà Nội viết cho các tờ Thực nghiệp dân báo và Hữu thanh tạp chí; đồng thời cộng tác với vợ chồng mục sư người Mỹ W.C. Cadman để dịch Kinh Thánh (Bible) của Cơ Đốc giáo ra chữ Quốc ngữ (tiếng Việt) bằng cách đối chiếu bản chữ Hán với bản chữ Pháp. - Khoảng năm 1925 Phan Khôi vào Sài Gòn, sau đó nhân một vụ việc gì đó, vì bị chính quyền Pháp tình nghi và đe dọa, ông chạy xuống Cà Mau tá túc tại nhà một người bạn là chủ đồn điền; ban đầu chỉ dùng thời giờ học tiếng Pháp qua thư từ với nhà báo người Pháp là Dejean de la Bâtie ở Sài Gòn, sau đó cộng tác gửi bài cho các báo ở Sài Gòn. - Những năm 1928-1933 tại Sài Gòn, Phan Khôi viết cho các tờ Đông Pháp thời báo (1928), Thần chung (1929-1930), Phụ nữ tân văn (1929-1934), Trung lập (1930-1933), Quần báo (báo chữ Hán của Hoa kiều ở Chợ Lớn,1928-30), gửi bài cộng tác với Đông Tây tuần báo (1929-1932) ở Hà Nội. Đây là những năm ông làm nên “tên tuổi Phan Khôi”. * Năm 1928 Phan Khôi (trên Đông Pháp thời báo) tranh luận bác bỏ “cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam về hồi thế kỷ XVIII”, nói rõ việc hiệp ước Pháp-Việt 1787 đã không được phía Pháp thực hiện. * Năm 1929 Phan Khôi (trên Phụ nữ tân văn) mở cuộc trưng cầu ý kiến các nhân vật nổi tiếng trong nước về vấn đề phụ nữ. * Năm 1929-30 Phan Khôi (trên Thần chung) mở cuộc thi về quốc sử. * Năm 1929-31 Phan Khôi (trên Thần chung, Trung lập, Phụ nữ tân văn) mở ra tranh luận về việc viết đúng chữ quốc ngữ. * Năm 1930 Phan Khôi (trên Trung lập) mở ra cuộc bút chiến với Nguyễn Phan Long và đảng Lập hiến Nam Kỳ về trách nhiệm của người làm chính trị trước thời cuộc và vận mệnh người dân. * Năm 1929-30 Phan Khôi (trên Thần chung, Phụ nữ tân văn, Trung lập) nêu vấn đề về di sản Nho giáo trong thời “Âu hoá” của Á Đông; thảo luận các vấn đề Nho giáo với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Huỳnh Thúc Kháng. * Năm 1931- 32 Phan Khôi (trên Đông tây, Trung lập, Phụ nữ tân văn) tham gia tranh luận về “quốc học”, đánh giá di sản học thuật Việt Nam trong quá khứ. * Năm 1932, Phan Khôi (trên Phụ nữ tân văn) công bố bài thơ Tình già, kêu gọi đổi mới thơ ca, khởi đầu cho phong trào Thơ mới tiếng Việt. * Từ 1928 đến 1933, Phan Khôi (trên Đông Pháp thời báo, Thần chung, Trung lập) thực nghiệm lối văn hài đàm với các “mặt nạ tác giả”, xây dựng một loại văn tiểu phẩm học từ báo chí Pháp nhưng vẫn đậm phong vị tản văn Á Đông, là tác giả trên dưới 1000 bài hài đàm với các bút danh Tân Việt, Tha Sơn, Thông Reo, để lại một bách khoa thư văn hoá về cái hằng ngày của đời sống. - Năm 1933, Phan Khôi ra Hà Nội, viết cho Thực nghiệp dân báo, sau đó nhận lời với chủ báo Phụ nữ thời đàm, cùng Tế Xuyên đổi tờ này sang thể tài tuần báo, tiếp tục đề cập vấn đề phụ nữ với dư luận ngoài Bắc vốn bảo thủ hơn; tham gia tranh luận “duy tâm − duy vật”; duy trì tờ báo này được 26 tuần lễ. - Năm 1935 Phan Khôi vào Huế làm chủ bút tờ Tràng An. Tháng 8.1936 được phép xuất bản tờ Sông Hươngdo chính ông sáng lập, duy trì tờ này được 37 số, sau đó bán lại cho nhóm cộng sản Phan Đăng Lưu. - Năm 1937, ông vào lại Sài Gòn, dạy quốc văn và chữ Hán tại trường Chấn Thanh; đồng thời cộng tác gửi bài cho các báo ở Hà Nội: Hà Nội báo(1936-37), Đông Dương tạp chí(1937-38); Dư luận (1938), Thời vụ (1938-39), Tao đàn (1939), Phổ thông bán nguyệt san(1939)… Năm 1941, trường Chấn Thanh từ Sài Gòn chuyển về Đà Nẵng; Phan Khôi về làng Bảo An sống với gia đình. - Trong năm 1945, Phan Khôi từ chối khi được Nguyễn Bá Trác đến vận động tham gia chính phủ thân Nhật mà Trần Trọng Kim đang thành lập; ông cũng không mặn mà với đại diện tổ chức phản đế là Hoàng Phê đến vận động; ông chỉ nhận lời một cách hờ hững với tổ chức Quốc dân đảng (do Phan Bá Lân đến vận động nhiều lần), nhưng không hoạt động gì. Sự kiện Việt Minh cướp chính quyền ở Quảng Nam và trong cả nước là bất ngờ đối với Phan Khôi, ông ngạc nhiên khi biết ngay trong gia đình có người của Việt Minh (em trai ông là Phan Bôi, con trai ông là Phan Thao…). Được mời dự mít tinh mừng thàmh lập nước ở tỉnh Quảng Nam, ông lên diễn đàn tỏ ý tán thành độc lập dân tộc nhưng không đồng tình đi con đường cộng sản vì theo ông nó sẽ khiến kinh tế lạc hậu, dân trí thấp kém. - Tháng 10.1945, chính quyền mới ở tỉnh Quảng Nam mời ông ra Hà Nội, theo chỉ thị triệu tập của Chính phủ. Khi cuộc kháng chiến nổ ra trong cả nước, từ Hà Nội ông tản cư lên Việt Bắc, làm công tác nghiên cứu và dịch thuật trong cơ quan hội Văn nghệ Việt Nam. - Năm 1955 trở về Hà Nội, ông làm việc trong hội Văn nghệ Việt Nam. - Năm 1956, ông được bộ Văn hoá và hội Văn nghệ Việt Nam cử đi Trung Quốc dự kỷ niệm 20 năm (1936-56) ngày mất Lỗ Tấn (1881-1936); ông có bài phát biểu tại lễ kỷ niệm. - Năm 1957 Phan Khôi tham gia đại hội thành lập Hội nhà văn Việt Nam, từng làm giám khảo trong các giải văn học của Hội nhà văn Việt Nam. - Trong năm 1956 - 1957 Phan Khôi có một số bài viết đăng trên các tập Giai phẩm (nhất là bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ) của Nxb Minh Đức. Ông đứng tên làm chủ nhiệm báo Nhân văn (1956) và đăng một số bài trên báo này. Khi tờ Nhân văn bị đóng cửa, ông có một số bài đăng tuần báo Văn (của Hội Nhà văn Việt Nam, 1957-58) bị đương thời xem như những biểu hiện tư tưởng tiêu cực và có tính phá hoại (do báo Nhân Văn có phê phán giới lãnh đạo văn nghệ lúc đó và phỏng vấn nhiều kỳ về mở rộng tự do, dân chủ). Sau khi các văn nghệ sĩ tham gia Nhân Văn - Giai Phẩm bị đưa đi cải tạo, Phan Khôi bị cấm sáng tác cho đến khi qua đời. - Ông qua đời tại Hà Nội ngày 16/1/1959, thọ 73 tuổi. - Năm 2007, kỷ niệm 120 năm ngày sinh của ông, Một tọa đàm về ông đã được Tạp chí Xưa và Nay, Hội khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức. Loạt sách Phan Khôi - Tác phẩm đăng báo, do nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sưu tầm, cũng được xuất bản. Đặc biệt Phan Khôi là người khởi động hoặc tham gia hàng loạt các cuộc tranh luận trên báo chí về khá nhiều vấn đề học thuật có tính cơ bản và lâu dài, gắn với sự phát triển của tư tưởng, văn học và xã hội Việt Nam thế kỷ XX. ... Qua hoạt động báo chí, Phan Khôi chứng tỏ mình còn là một học giả, một nhà tư tưởng, một nhà văn. Phan Khôi là nhà tư tưởng đã đặt ra hàng loạt vấn đề : phê phán Khổng giáo, tiếp nhận tư tưởng Âu Tây, nữ quyền. Ông cũng là một nhà Hán học và Trung quốc học am hiểu những vấn đề của xã hội Trung Quốc đương thời, ông là một dịch giả đã dịch Kinh Thánh của đạo Thiên chúa ra tiếng Việt, một nhà Việt ngữ học cả ở phần lí thuyết lẫn thực hành, một nhà văn xuôi với thể hài đàm và một nhà phê bình văn học. Có thể nói Phan Khôi là người thể hiện rõ nhất và thành công nhất chủ trương duy tân kiểu Phan Chu Trinh vào đời sống, nhưng khác với người tiền bối ấy, Phan Khôi hoàn toàn không thể hiện mình như một chí sĩ; ông sống như một người thường trong đời thường, chỉ hoạt động chuyên nghiệp như một nhà ngôn luận, chỉ tác động đến xã hội bằng ngôn luận. Phan Khôi thuộc trong số những trí thức hàng đầu có công tạo ra mặt bằng tri thức và văn hoá cho xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, nhưng đặt bên cạnh những gương mặt sáng láng như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Huỳnh Thúc Kháng…, ông thường tự thể hiện như kẻ phản biện, và sự phản biện của ông thường đem lại chiều sâu mới cho tri thức. (Lại Nguyên Ân) Chương Dân thi thoại(1936; đã tái bản 1996) Vựng biên các tác phẩm của Phan Khôi do hậu thế thực hiện: Tác phẩm đăng báo 1928(Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn; in 2003) Tác phẩm đăng báo 1929(Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn; in 2005) Tác phẩm đăng báo 1930(Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn; in 2006) Tác phẩm đăng báo 1931(Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn; 2007) Phan Khôi viết và dịch Lỗ Tấn(Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn; in 2007) Toàn tập 32 số báo Sông Hương ra từ ngày 1-8-1931 đến 27-3-1932 được tập hợp lại in thành tập với cấu trúc trang báo hai cột, cơ cấu bài viết và trang mục như nguyên bản, khổ 19x27, dày hơn 700 trang. Ðây là tuần báo do Phan Khôi chủ nhiệm, tòa soạn đặt tại Huế, đề xướng học vấn và tri thức. Chính trên tuần báo Sông Hương này, truyện ngắn Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng đã đăng dài kỳ bắt đầu từ số 2 và trở nên nổi tiếng trên văn đàn VN. Tuần báo còn quy tụ được các cây bút quan trọng như: Hoàng Xuân Hãn, Trần Thanh Mại, Ðào Trinh Nhất, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan... với những bài viết có giá trị cả về mặt văn chương nghệ thuật và khảo cứu học thuật. | Nói về ông ngày hôm nay - Ông là một trong những nhà văn hóa nổi bật của thế kỷ 20. Ông vừa viết văn chương, vừa vận động yêu nước. Phan Khôi cũng chính là người đầu tiên dịch Kinh thánh Tin lành từ tiếng Pháp sang tiếng Việt (năm 1920) và dịch một số tác phẩm từ tiếng Hán. Bản dịch của Phan Khôi hay và chính xác hơn nhiều bản dịch của những dịch giả khác. (Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà Văn) - Giáo sư Đinh Xuân Lâm dù đã 83 tuổi nhưng vẫn nhớ như in những câu trong bài thơ “Tình già” của Phan Khôi, tác phẩm được cho là một trong những bài thơ mở đường Thơ mới, mà ông đã đọc cách đây gần 70 năm. Giáo sư còn nhắc đến cuốn tiểu thuyết “Trở vỏ lửa ra” của Phan Khôi để chứng minh rằng, Phan Khôi là một người toàn diện, không chỉ dịch văn, thơ, viết thơ, viết báo mà còn viết cả tiểu thuyết. “Muốn dùng được Phan Khôi phải là người cực giỏi, cực tài. Chắc chỉ có Chủ tịch Hồ Chí Minh” (Giáo sư Đinh Xuân Lâm, Phó chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam) - Nếu nhìn từ góc độ ngôn ngữ học, không thể phủ nhận những đóng góp của Phan Khôi bằng cả tâm huyết, trách nhiệm, trí tuệ đối với quá trình bảo vệ và phát triển ngôn ngữ quốc gia tiếng Việt, “làm cho tiếng Việt nước ta tiến dần lên đến bậc hoàn mỹ”. (Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Khang) - Phan Khôi, người đi trước thời đại. (Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn) - Một trí thức trẻ mới ngoài 20 tuổi đã bị thực dân Pháp bắt bỏ tù 2 lần, một lần 18 tháng, một lần 3 năm, chỉ vì theo chân Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh để hoạt động yêu nước. Một nhà báo suốt thời tráng niên của mình lăn lộn trên văn đàn chỉ nhằm một mục đích cho hai tiếng nhân dân. Một nhân sĩ bỏ lại tất cả ở phía sau để dấn thân cho cuộc kháng chiến 9 năm và cuối cùng, một học giả sức cùng lực kiệt vẫn gắng gượng đóng góp sức mình, mong có được một vườn hoa văn nghệ đầy hương sắc của dân tộc. Một người như vậy không bao giờ đi ngược lại quyền lợi của đồng bào mình. (Phan An Sa, con trai út của Phan Khôi) Phỏng vấn, viết về tác giả Sơ lược về đời làm báo của Phan Khôi Tìm lại chân dung một nhà báo hàng đầu Việt Nam Sự học ngày nay: Ít "bậc thầy" đúng nghĩa? Tìm lại tác giả Phan Khôi (BBC) Các bài viết, bài báo của tác giả |
Nội dung khác
Bạch Thái Bưởi - Khẳng định doanh tài nước Việt
28/08/2015Bộ sách Đạo kinh doanh Việt Nam và Thế giớiPhan Châu Trinh (1872 - 1926)
17/03/2013Dịch giả Phan Quang Định - Người giải mã bí ẩn của các giấc mộng
20/11/2012Giao HưởngNguyễn Duy Cần (1907-1998)
24/03/2012Đào Trinh Nhất (1900-1951): từ một nhà báo sáng danh đến một học giả khả kính
20/02/2012Nguyễn Đình ChúVũ Bằng (1913-1984)
31/01/2012Nguyễn Ngọc Bích (1945 - )
16/06/2009Ngô Tự Lập (1962 - )
14/03/2009Đỗ Kiên Cường (1957 - )
10/03/2009Vương Trí Nhàn (1942 - )
06/03/2009Nguyễn Trần Bạt (1946 - 2020)
06/03/2009Nguyễn Tất Thịnh (1962 - )
03/03/2009