Phan Khôi (1887 - 1959)

09:56 CH @ Thứ Hai - 22 Tháng Sáu, 2009


PHAN KHÔI(1887-1959)
Các nhà nghiên cứu cho rằng: ông thuộc số những trí thức hàng đầu có công tạo ra mặt bằng tri thức và văn hóa cho xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, nhưng khác với họ, ông thể hiện mình ở vai trò phản biện, và sự phản biện đó đem lại chiều sâu mới cho tri thức.

- Phan Khôi sinh ngày 6/10/1887 tại làng Bảo An, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Là con trai của Phó bảng Phan Trần, Tri phủ Diên Khánh và là cháu ngoại của Tổng đốc Hoàng Diệu, ngay từ nhỏ, Phan Khôi đã nổi tiếng là người thông minh, học giỏi và hay… lý sự!

- Thiếu thời Phan Khôi học chữ Hán, năm 18 tuổi đi thi, đỗ tú tài (1905), sau đó bỏ lối học khoa cử, tìm học chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp; ông là một trong những người đầu tiên cắt tóc ngắn, hưởng ứng vận động duy tân.

- Năm 1907, Phan Khôi ra Hà Nội tham gia công việc của Đông Kinh nghĩa thục. Nghĩa thục bị đóng cửa, ông đi Nam Định học chữ Pháp với Nguyễn Bá Học, vì nhà nho này bị mật thám Pháp theo dõi, ông phải trở về quê.

- Năm 1909 Phan Khôi ra Huế xin vào học trường dòng Pellerin (của nhà thờ Ki-tô giáo), được vài tháng lại phải trở về quê vì ở nhà có đại tang. Lúc này ở Quảng Nam nổ ra phong trào “xin xâu” (biểu tình đòi giảm sưu thuế), Phan Khôi tham gia (có làm bài vè Dân quạ đình công), bị bắt và cầm tù tại nhà lao Hội An cùng Huỳnh Thúc Kháng và nhiều nhân sĩ khác. Trong tù tiếp tục tự học tiếng Pháp.

- Năm 1913, được ra tù, Phan Khôi về nhà cưới vợ và mở lớp dạy chữ Hán tại nhà mình. Khi triều đình Huế bãi bỏ chế độ khoa cử chữ Hán, ông thôi dạy và khuyên học trò đi học chữ Quốc ngữ.

- Năm 1916 Phan Khôi ra Hải Phòng làm thư ký cho Công ty vận tải đường thuỷ của Bạch Thái Bưởi, nhận thấy công việc ở đây chỉ để kiếm sống chứ không hợp chí hướng riêng nên đã xin thôi việc.

- Năm 1918, do Nguyễn Bá Trác giới thiệu, Phan Khôi lên Hà Nội tham gia viết bài cho tờ Nam phong tạp chícủa Phạm Quỳnh. Được một thời gian, ông bỏ tờ báo này, vào Sài Gòn viết cho báo Lục tỉnh tân văn; vì có một bài có giọng “kịch liệt quá”, ông thôi việc ở tờ này.

- Năm 1920, Phan Khôi trở ra Hà Nội viết cho các tờ Thực nghiệp dân báoHữu thanh tạp chí; đồng thời cộng tác với vợ chồng mục sư người Mỹ W.C. Cadman để dịch Kinh Thánh (Bible) của Cơ Đốc giáo ra chữ Quốc ngữ (tiếng Việt) bằng cách đối chiếu bản chữ Hán với bản chữ Pháp.

- Khoảng năm 1925 Phan Khôi vào Sài Gòn, sau đó nhân một vụ việc gì đó, vì bị chính quyền Pháp tình nghi và đe dọa, ông chạy xuống Cà Mau tá túc tại nhà một người bạn là chủ đồn điền; ban đầu chỉ dùng thời giờ học tiếng Pháp qua thư từ với nhà báo người Pháp là Dejean de la Bâtie ở Sài Gòn, sau đó cộng tác gửi bài cho các báo ở Sài Gòn.

- Những năm 1928-1933 tại Sài Gòn, Phan Khôi viết cho các tờ Đông Pháp thời báo (1928), Thần chung (1929-1930), Phụ nữ tân văn (1929-1934), Trung lập (1930-1933), Quần báo (báo chữ Hán của Hoa kiều ở Chợ Lớn,1928-30), gửi bài cộng tác với Đông Tây tuần báo (1929-1932) ở Hà Nội. Đây là những năm ông làm nên “tên tuổi Phan Khôi”.

* Năm 1928 Phan Khôi (trên Đông Pháp thời báo) tranh luận bác bỏ “cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam về hồi thế kỷ XVIII”, nói rõ việc hiệp ước Pháp-Việt 1787 đã không được phía Pháp thực hiện.

* Năm 1929 Phan Khôi (trên Phụ nữ tân văn) mở cuộc trưng cầu ý kiến các nhân vật nổi tiếng trong nước về vấn đề phụ nữ.

* Năm 1929-30 Phan Khôi (trên Thần chung) mở cuộc thi về quốc sử.

* Năm 1929-31 Phan Khôi (trên Thần chung, Trung lập, Phụ nữ tân văn) mở ra tranh luận về việc viết đúng chữ quốc ngữ.

* Năm 1930 Phan Khôi (trên Trung lập) mở ra cuộc bút chiến với Nguyễn Phan Long và đảng Lập hiến Nam Kỳ về trách nhiệm của người làm chính trị trước thời cuộc và vận mệnh người dân.

* Năm 1929-30 Phan Khôi (trên Thần chung, Phụ nữ tân văn, Trung lập) nêu vấn đề về di sản Nho giáo trong thời “Âu hoá” của Á Đông; thảo luận các vấn đề Nho giáo với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Huỳnh Thúc Kháng.

* Năm 1931- 32 Phan Khôi (trên Đông tây, Trung lập, Phụ nữ tân văn) tham gia tranh luận về “quốc học”, đánh giá di sản học thuật Việt Nam trong quá khứ.

* Năm 1932, Phan Khôi (trên Phụ nữ tân văn) công bố bài thơ Tình già, kêu gọi đổi mới thơ ca, khởi đầu cho phong trào Thơ mới tiếng Việt.

* Từ 1928 đến 1933, Phan Khôi (trên Đông Pháp thời báo, Thần chung, Trung lập) thực nghiệm lối văn hài đàm với các “mặt nạ tác giả”, xây dựng một loại văn tiểu phẩm học từ báo chí Pháp nhưng vẫn đậm phong vị tản văn Á Đông, là tác giả trên dưới 1000 bài hài đàm với các bút danh Tân Việt, Tha Sơn, Thông Reo, để lại một bách khoa thư văn hoá về cái hằng ngày của đời sống.

- Năm 1933, Phan Khôi ra Hà Nội, viết cho Thực nghiệp dân báo, sau đó nhận lời với chủ báo Phụ nữ thời đàm, cùng Tế Xuyên đổi tờ này sang thể tài tuần báo, tiếp tục đề cập vấn đề phụ nữ với dư luận ngoài Bắc vốn bảo thủ hơn; tham gia tranh luận “duy tâm − duy vật”; duy trì tờ báo này được 26 tuần lễ.

- Năm 1935 Phan Khôi vào Huế làm chủ bút tờ Tràng An. Tháng 8.1936 được phép xuất bản tờ Sông Hươngdo chính ông sáng lập, duy trì tờ này được 37 số, sau đó bán lại cho nhóm cộng sản Phan Đăng Lưu.

- Năm 1937, ông vào lại Sài Gòn, dạy quốc văn và chữ Hán tại trường Chấn Thanh; đồng thời cộng tác gửi bài cho các báo ở Hà Nội: Hà Nội báo(1936-37), Đông Dương tạp chí(1937-38); Dư luận (1938), Thời vụ (1938-39), Tao đàn (1939), Phổ thông bán nguyệt san(1939)… Năm 1941, trường Chấn Thanh từ Sài Gòn chuyển về Đà Nẵng; Phan Khôi về làng Bảo An sống với gia đình.

- Trong năm 1945, Phan Khôi từ chối khi được Nguyễn Bá Trác đến vận động tham gia chính phủ thân Nhật mà Trần Trọng Kim đang thành lập; ông cũng không mặn mà với đại diện tổ chức phản đế là Hoàng Phê đến vận động; ông chỉ nhận lời một cách hờ hững với tổ chức Quốc dân đảng (do Phan Bá Lân đến vận động nhiều lần), nhưng không hoạt động gì.

Sự kiện Việt Minh cướp chính quyền ở Quảng Nam và trong cả nước là bất ngờ đối với Phan Khôi, ông ngạc nhiên khi biết ngay trong gia đình có người của Việt Minh (em trai ông là Phan Bôi, con trai ông là Phan Thao…). Được mời dự mít tinh mừng thàmh lập nước ở tỉnh Quảng Nam, ông lên diễn đàn tỏ ý tán thành độc lập dân tộc nhưng không đồng tình đi con đường cộng sản vì theo ông nó sẽ khiến kinh tế lạc hậu, dân trí thấp kém.

- Tháng 10.1945, chính quyền mới ở tỉnh Quảng Nam mời ông ra Hà Nội, theo chỉ thị triệu tập của Chính phủ. Khi cuộc kháng chiến nổ ra trong cả nước, từ Hà Nội ông tản cư lên Việt Bắc, làm công tác nghiên cứu và dịch thuật trong cơ quan hội Văn nghệ Việt Nam.

- Năm 1955 trở về Hà Nội, ông làm việc trong hội Văn nghệ Việt Nam.

- Năm 1956, ông được bộ Văn hoá và hội Văn nghệ Việt Nam cử đi Trung Quốc dự kỷ niệm 20 năm (1936-56) ngày mất Lỗ Tấn (1881-1936); ông có bài phát biểu tại lễ kỷ niệm.

- Năm 1957 Phan Khôi tham gia đại hội thành lập Hội nhà văn Việt Nam, từng làm giám khảo trong các giải văn học của Hội nhà văn Việt Nam.

- Trong năm 1956 - 1957 Phan Khôi có một số bài viết đăng trên các tập Giai phẩm (nhất là bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ) của Nxb Minh Đức. Ông đứng tên làm chủ nhiệm báo Nhân văn (1956) và đăng một số bài trên báo này. Khi tờ Nhân văn bị đóng cửa, ông có một số bài đăng tuần báo Văn (của Hội Nhà văn Việt Nam, 1957-58) bị đương thời xem như những biểu hiện tư tưởng tiêu cực và có tính phá hoại (do báo Nhân Văn có phê phán giới lãnh đạo văn nghệ lúc đó và phỏng vấn nhiều kỳ về mở rộng tự do, dân chủ). Sau khi các văn nghệ sĩ tham gia Nhân Văn - Giai Phẩm bị đưa đi cải tạo, Phan Khôi bị cấm sáng tác cho đến khi qua đời.

- Ông qua đời tại Hà Nội ngày 16/1/1959, thọ 73 tuổi.

- Năm 2007, kỷ niệm 120 năm ngày sinh của ông, Một tọa đàm về ông đã được Tạp chí Xưa và Nay, Hội khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức. Loạt sách Phan Khôi - Tác phẩm đăng báo, do nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sưu tầm, cũng được xuất bản.

Quan điểm viết bài

Khoảng thời gian hoạt động rực rỡ nhất trong đời Phan Khôi, "làm cho Phan Khôi trở thành Phan Khôi", kéo dài từ năm 1928 đến năm 1939. Trong khoảng thời gian này, toàn bộ các bài viết của ông đều được đăng trên báo chí với các đề tài rất đa dạng: cổ học Trung Quốc và Việt Nam; văn hóa, văn học và chính trị Trung Quốc đương đại; khảo cứu lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ và văn học Việt Nam, phê phán chính sự đương thời,…

Đặc biệt Phan Khôi là người khởi động hoặc tham gia hàng loạt các cuộc tranh luận trên báo chí về khá nhiều vấn đề học thuật có tính cơ bản và lâu dài, gắn với sự phát triển của tư tưởng, văn học và xã hội Việt Nam thế kỷ XX.

... Qua hoạt động báo chí, Phan Khôi chứng tỏ mình còn là một học giả, một nhà tư tưởng, một nhà văn. Phan Khôi là nhà tư tưởng đã đặt ra hàng loạt vấn đề : phê phán Khổng giáo, tiếp nhận tư tưởng Âu Tây, nữ quyền. Ông cũng là một nhà Hán học và Trung quốc học am hiểu những vấn đề của xã hội Trung Quốc đương thời, ông là một dịch giả đã dịch Kinh Thánh của đạo Thiên chúa ra tiếng Việt, một nhà Việt ngữ học cả ở phần lí thuyết lẫn thực hành, một nhà văn xuôi với thể hài đàm và một nhà phê bình văn học.

Có thể nói Phan Khôi là người thể hiện rõ nhất và thành công nhất chủ trương duy tân kiểu Phan Chu Trinh vào đời sống, nhưng khác với người tiền bối ấy, Phan Khôi hoàn toàn không thể hiện mình như một chí sĩ; ông sống như một người thường trong đời thường, chỉ hoạt động chuyên nghiệp như một nhà ngôn luận, chỉ tác động đến xã hội bằng ngôn luận. Phan Khôi thuộc trong số những trí thức hàng đầu có công tạo ra mặt bằng tri thức và văn hoá cho xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, nhưng đặt bên cạnh những gương mặt sáng láng như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Huỳnh Thúc Kháng…, ông thường tự thể hiện như kẻ phản biện, và sự phản biện của ông thường đem lại chiều sâu mới cho tri thức. (Lại Nguyên Ân)

Các tác phẩm đã xuất bản

Chương Dân thi thoại(1936; đã tái bản 1996)
Trở vỏ lửa ra (1939)
Một vài nhận xét trong tiếng ta theo chữ Nôm (1949)
Tìm tòi trong tiếng Việt (1950)
Chủ nghĩa Mác và ngôn ngữ học(dịch của Xit-ta-lin, 1951)
Thù làng (truyện, dịch của Mã Phong, 1952)
Ánh lửa đằng trước(truyện, dịch của Lưu Bạch Vũ, 1954)
Việt ngữ nghiên cứu (1955; đã tái bản 1997)
Tuyển tập tiểu thuyết Lỗ Tấn (dịch, 1955)
Phân tích vần quốc ngữ (1956)
Tuyển tập tạp văn Lỗ Tấn (dịch, 1956)
Tuyển tập tiểu thuyết Lỗ Tấn, tập II (dịch, 1957)

Vựng biên các tác phẩm của Phan Khôi do hậu thế thực hiện:

Tác phẩm đăng báo 1928(Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn; in 2003)

Tác phẩm đăng báo 1929(Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn; in 2005)

Tác phẩm đăng báo 1930(Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn; in 2006)

Tác phẩm đăng báo 1931(Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn; 2007)

Phan Khôi viết và dịch Lỗ Tấn(Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn; in 2007)

Phan Khôi - Tiếng Việt, Báo Chí Và Thơ Mới, Vũ Gia

Sông Hương: tuần báo ra ngày thứ bảy, NXB Lao động, 2009

Toàn tập 32 số báo Sông Hương ra từ ngày 1-8-1931 đến 27-3-1932 được tập hợp lại in thành tập với cấu trúc trang báo hai cột, cơ cấu bài viết và trang mục như nguyên bản, khổ 19x27, dày hơn 700 trang.

Ðây là tuần báo do Phan Khôi chủ nhiệm, tòa soạn đặt tại Huế, đề xướng học vấn và tri thức. Chính trên tuần báo Sông Hương này, truyện ngắn Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng đã đăng dài kỳ bắt đầu từ số 2 và trở nên nổi tiếng trên văn đàn VN. Tuần báo còn quy tụ được các cây bút quan trọng như: Hoàng Xuân Hãn, Trần Thanh Mại, Ðào Trinh Nhất, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan... với những bài viết có giá trị cả về mặt văn chương nghệ thuật và khảo cứu học thuật.

Nói về ông ngày hôm nay

- Ông là người có tính cách quyết liệt và tư tưởng duy tân. Sống trong thời kỳ lịch sử đầy biến cố, bi hùng, mỗi con người trước vận mệnh của Tổ quốc có nhiều lựa chọn khác nhau. Vì sự lựa chọn là gắn bó với dân tộc và cũng gắn bó với sự nghiệp giải phóng dân tộc, chúng ta đã chứng kiến toàn bộ cuộc đời của cụ, kể cả những ngày khó khăn nhất, gai góc nhất cũng thấy đó là cuộc đấu tranh lựa chọn con đường. Nếu con đường đi theo cách mạng để giải phóng dân tộc là một dấu chấm than khẳng định, thì con đường phấn đấu để xây dựng một đất nước Việt Nam mới vẫn có thể đối với các cụ là một dấu hỏi. Hôm nay tưởng niệm Phan Khôi chúng ta nhấn mạnh đến dấu chấm than ấy! (Dương Trung Quốc)

- Ngoài cụ Huỳnh Thúc Kháng, nếu chỉ chọn lấy một nhà báo tiêu biểu nhất của xứ Quảng trong thế kỷ 20, tôi sẽ chọn lấy Phan Khôi. Đó là một hình ảnh kỳ lạ nhất, cô độc nhất, bản lĩnh nhất của lịch sử báo chí Việt Nam hiện đại. Ngay trong cõi nhân sinh ta bà bụi bặm, Phan Khôi đã chọn thái độ sống như một cây thông. Ông đứng sừng sững, không bè phái, băng nhóm, dù đơn độc nhưng lại dám… “gây sự” từ Nam chí Bắc trên trường văn trận bút. (Lê Minh Quốc)

- Ông là một trong những nhà văn hóa nổi bật của thế kỷ 20. Ông vừa viết văn chương, vừa vận động yêu nước. Phan Khôi cũng chính là người đầu tiên dịch Kinh thánh Tin lành từ tiếng Pháp sang tiếng Việt (năm 1920) và dịch một số tác phẩm từ tiếng Hán. Bản dịch của Phan Khôi hay và chính xác hơn nhiều bản dịch của những dịch giả khác. (Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà Văn)

- Giáo sư Đinh Xuân Lâm dù đã 83 tuổi nhưng vẫn nhớ như in những câu trong bài thơ “Tình già” của Phan Khôi, tác phẩm được cho là một trong những bài thơ mở đường Thơ mới, mà ông đã đọc cách đây gần 70 năm. Giáo sư còn nhắc đến cuốn tiểu thuyết “Trở vỏ lửa ra” của Phan Khôi để chứng minh rằng, Phan Khôi là một người toàn diện, không chỉ dịch văn, thơ, viết thơ, viết báo mà còn viết cả tiểu thuyết. “Muốn dùng được Phan Khôi phải là người cực giỏi, cực tài. Chắc chỉ có Chủ tịch Hồ Chí Minh” (Giáo sư Đinh Xuân Lâm, Phó chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam)

- Nếu nhìn từ góc độ ngôn ngữ học, không thể phủ nhận những đóng góp của Phan Khôi bằng cả tâm huyết, trách nhiệm, trí tuệ đối với quá trình bảo vệ và phát triển ngôn ngữ quốc gia tiếng Việt, “làm cho tiếng Việt nước ta tiến dần lên đến bậc hoàn mỹ”. (Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Khang)

- Phan Khôi, người đi trước thời đại. (Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn)

- Một trí thức trẻ mới ngoài 20 tuổi đã bị thực dân Pháp bắt bỏ tù 2 lần, một lần 18 tháng, một lần 3 năm, chỉ vì theo chân Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh để hoạt động yêu nước. Một nhà báo suốt thời tráng niên của mình lăn lộn trên văn đàn chỉ nhằm một mục đích cho hai tiếng nhân dân. Một nhân sĩ bỏ lại tất cả ở phía sau để dấn thân cho cuộc kháng chiến 9 năm và cuối cùng, một học giả sức cùng lực kiệt vẫn gắng gượng đóng góp sức mình, mong có được một vườn hoa văn nghệ đầy hương sắc của dân tộc. Một người như vậy không bao giờ đi ngược lại quyền lợi của đồng bào mình. (Phan An Sa, con trai út của Phan Khôi)

Phỏng vấn, viết về tác giả

Sơ lược về đời làm báo của Phan Khôi

Tìm lại chân dung một nhà báo hàng đầu Việt Nam

Sự học ngày nay: Ít "bậc thầy" đúng nghĩa?

Tưởng niệm về Phan Khôi(Trần Duy)

Tìm lại tác giả Phan Khôi (BBC)

Kỳ 1: Phan Khôi: Hai thái cực trong tính cách

Kỳ 2: Phan Khôi: Như một “lão nông”

Kỳ 3: Phan Khôi và 2 người ăn mày trong nạn đói 1945

Phan Khôi và “sinh nhật” Tình già - bài thơ mở đầu phong trào Thơ Mới (Thể thao Văn hóa)


Các bài viết, bài báo của tác giả

Cách ngôn luận của người Á Đông (1930)
Cái ác ý Bởi nghề Nghiệp (1936)
Thanh niên với tổ quốc: Kẻ thanh niên tân học nước ta muốn giúp ích cho Tổ quốc phải làm thế nào?
Khoa học với văn hóa


Bài thơ Tình già (1932)của Phan Khôi – đây là bài thơ được coi là mốc khởi đầu cho phong trào Thơ Mới. Bài thơ kể từ đó trở thành một thi thoại mà các Hợp tuyển thơ Việt Nam đều có trích đăng để chứng minh cho sự hình thành và phát triển của Thơ mới.

Hai mươi bốn năm xưa,
Một đêm vừa gió lại vừa mưa.
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,
Hai cái đầu xanh, kề nhau than thở:
“Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng,
Mà lấy nhau hẳn đà không đặng;
Để đến nỗi tình trước phụ sau,
Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!”
“Hay! Nói mới bạc làm sao chớ!
Buông nhau làm sao cho nỡ?
Thương được chừng nào hay chừng nấy,
Chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thuỷ chung?
Hai mươi bốn năm sau,
Tình cờ đất khách gặp nhau!
Đôi cái đầu đều bạc.
Nếu chẳng quen lung, đố có nhìn ra được!
Ôn chuyên cũ mà thôi!
Liếc đưa nhau đi rồi!
Con mắt còn có đuôi

(Phụ nữ tân văn, 10/3/1932)