Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
Vấn đề quan hệ giữa lý luận và thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt trong triết học xã hội của chủ nghĩa Mác. Tầm quan trọng đó không chỉ ở chỗ: "Quan điểm về đời sống về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức". Kinh nghiệm đấu tranh, bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã đem lại cho chúng ta bài học vô giá là: "Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
Để giải quyết vấn đề nêu trên,
Thứ nhất,thực tiễn là hình thức hoạt động đặc thù người. Khái niệm thực tiễn đặc trưng cho hoạt động sống của xã hội loài người.
Thứ hai, thực tiễn là hoạt động người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Đây là điểm khác biệt của thực tiễn so với hoạt động nhận thức.
Thứ ba,thực tiễn là hoạt động được chủ thể tiến hành để đạt tới mục đích được đặt ra từ trước.
Thứ tư,thực tiễn mang tính chất lịch sử xã hội. Đó là những đặc điểm chung của thực tiễn mà nhiều tác giả đã nhất trí.
Vậy thực tiễn là gì? Theo chúng tôi, có thể xác định thực tiễn làhoạt động của một chủ thể lịch sử cụ thể, trong quá trình hoạt động ấy nó tiến hành cải tạo vật chất đối với hiện thực một cách phù họp với các mục đích của bản thân, với môhình lý tưởng và với trí thức của nó về hiện thực và nhờ mối liên hệ giữađối tượng hóa và giải đối tượng hoá trong quá trình này mànó tự cải tạo chính bản thân mình.Định nghĩa này có thể hơi dài, song nó cho phép thâu tóm được mọi hình thức đa dạng của thực tiễn xã hội và phân biệt nó với các hoạt động không phải là hoạt động thực tiễn. Điều cơ bản trong định nghĩa này là ở chỗ khẳng định rằng bằng hoạt động của mình, chủ thểchuyển cái tinh thần, ý niệm thành cái vật chất và qua đó, thể hiện ra là lực lượng tích cực của sự cải tạo.
Vậy thực tiễn và hoạt động khác nhau ở điểm nào? Phải lưu ý rằng có nhiều tác giả đã đồng nhất hai khái niệm này với nhau. Theo chúng tôi, hoạt động hiểu theo nghĩa chung nhất là phương thức tồn tại và phát triển hiện thực lịch sử. Một số tác giả đã dựa vào câu nói của C.Mác - "Đời sống xã hội, về thực chất, là có tính chất thực tiễn" - để đồng nhất hai khái niệm "thực tiễn" và "hoạt động". Theo chúng tôi, không có cơ sở để đồng nhất hai khái niệm đó. Câu nói mang tính nguyên tắc đó của C .Mác cần phải được hiểu là: Thực tiễn là phương thức mà con người tác động qua lại với thế giới và cải tạo thế giới đó. Mác đem quan điểm đó đối lập lại với quan điểm của chủ nghĩa duy vật trực quan của Phoiơbắc. Không phải lý luận, mà chính thực tiễn là cái tạo thành bản chất của các mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên ở trong lòng xã hội. Bản thân quan hệ lý luận cần được tách biệt và lý giải dưới dạng một thành tố không thể tách rời được của thực tiễn. Song, không nên đồng nhất bản chất của quá trình với bản thân quá trình. Có quan điểm cho rằng, bất kỳ hình thức hoạt động nào (lý luận chẳng hạn) cũng đều có liên quan đến thực tiễn xã hội, phục tùng nó, phát triển trên cơ sở của nó. Quan điểm khác lại coi bản thân hoạt động lý luận là thực tiễn. Thực tiễn bao giờ cũng là sự vật chất hóacác ý niệm, là phương thức chuyển cái ý niệm thành cái vật chất, còn hoạt động lý luận là quá trình ngược lại, mặc dù nó bắt nguồn từ thực tiễn.
Qua đó có thể kết luận rằng phạm trù "hoạt động", xét về ngoại điên, là rộng hơn phạm trù "thực tiễn".Vậy thì vấn đề quan hệ giữa hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn với tư cách là hai lĩnh vực cơ bản nhất của hoạt động xã hội phải được hiểu như thế nào?
Đây là hai phương thức quan hệ khác nhau với thế giới. Kết quả của quan hệ lý luận là tái hiện lại đối tượng trong ý thức, là mô hình lý luận của đối tượng. Còn kết quả của hoạt động thực tiễn là sự cải tạo vật chất đối với đối tượng. Thực tiễn chỉ có mặt ớ nơi cócác hình thức hoạt động có đối tượng cảm tính, có sự cải tạo đối tượng trên chực tế, chứ không phải là trong suy nghĩ. Do vậy theo chúng tôi, hoạt động lý luận khoa học, giáo dục, tuyên truyền không phải là thực tiễn. Bản thân khoa học chỉ có khả năng đem lại bức tranh lý tưởng về thế giới trong nhưng đặc trưng, bản chất của nó. Vấn đề cũng không thay đổi cả khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất vật chất trực tiếp. Bởikhi đó, bản thân lực lượng sản xuất tồn tại với tư cách là hình thức được đối tượng hoá của khoa học, còn khoa học vân tiếp tục là hình chức hoạt động tinh thầncủa con người, là sự phản ánh lý tưởng hiện thực.
Vậy phải chăng thực tiễn chỉ đơn giản là sử dụng đối tượng mà không có tính chủ quan, tính hướng đích?
Như vậy, giữa lý luận và thực tiễn bao giờ cũng tồn tại một mối liên hệ không thể tách rời. Song cho dù thực tiễn có hàm lượng lý luận nhiều đến đâu đi chăng nữa, thì thực tiễn và lý luận vẫn tồn tại với tư cách là hai lĩnh vực tương đối độc lập của hoạt động xã hội và bao giờ hình ảnh lý tưởng (kết quả của hoạt động lý luận) cũng đi trước hoạt động thực tiên. Nói cách khác, hoạt động bao giờ cũng bao hàm hai khâu cơ bản và mối liên hệ giữa chúng luôn mang tính lịch sử - cụ thể - đó là khâu nhận thức lý luận (sản xuất ra tri thức) và khâu thực tiễn (cải tạo hiện thực ).
Mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận,
Nếu ở phần trên chúng ta đã nói rằng thực tiễn là quá trình cải tạo vật chất hiện thực, thì thông qua quan hệ chủ thể - khách thể, thực tiễn thể hiện là phương thức chủ thể chuyển hoá cái ý mệnh mục đích, động cơ...) thành cái vật chất (khách thể được cải tạo phù hợp với mục đích). Trọng tâm ở đây được đặt vào hai mặt của một quá trình thống nhất: Từ cái ý niệm đến cái vật chất. Nếu chúng ta nhấn mạnh, tuyệt đối hoá sự cải tạo vật chất, thì sự định hướng thực tiễn bởi ý thức sẽ bị biến mất, và do vậy, thực tiễn bị biến thành một hành vi máy móc, vô thức. Còn nếu tuyệt đối hoá sự sự chuyển biến cái ý niệm thành cái vật chất, thìchúng ta không thểquan niệm thực tiễn là một quá trình khách quan, và như vậy sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Từ đó suy ra rằng thực tiễn và lý luận không thể là tuyệt đối đối lập với nhau. Tính tương đối của sự đối lập ấy trước hết được quy định bởi điều là: Quan hệ lý luận của con người với thế giới không bao giờ có thềlà quan hệ tuyệt đối biệt lập với thực tiễn. Hơn nữa, quan hệ lý luận luôn phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và phát triển trên cơ sở cải tạo thực tiễn xã hội. Nó, rốt cuộc, phải dựa trên cơ sở quan hệ thực tiễn với hiện thực. Đến lượt mình vốn là hoạt động của chủ thể có ý thức và ý chí, thực tiễn luôn bao hàm quan hệ lý luận của chủ thể với khách thể với tư cách là vòng khâu đặt mục đích của hoạt động thực tiễn.
Song, sự đối lập tuyệt đối đó không có nghĩa là không có sự đối lập tuyệt đối giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận do thực tiên chế định và phục vụ thực tiễn, song chúng có tính độc lập tương đối, mang những đặc trưng riêng của hoạt động. Cả khi tạo thành một thể thống nhất trong khuôn khổ của hoạt động xã hội, chúng vẫn là những mặt khác nhau của hoạt động đó. Chỉ khi được đưa vào thực tiễn, ý niệm, tư tưởng, lý luận mới có thể "cải tạo" thế giới. Nếu dừng lại trong lĩnh vực ý thức, chúng không có khả năng cải biến một cái gì ngoài khả năng ý thức. Các tư tướng, tự chúng, không phải là thực tiễn, mô hình lý tướng về xã hội tương lai thiếu sự cải tạo vật chất chỉ là mô. hình lý luận. Theo chúng tôi, cần phái nhấn mạnh tính đặc thù, tính độc lập của lý luận để không rơi vào chủ nghĩa thực dụng thiển cận, để phát hiện ra các quy luật phát triển của riêng lý luận, tính kế thừa lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội khác nhau.
Song, cũng cần nhấn mạnh một điều khác là: Tính độc lập tương đối của lý luận là có tính chất tương đối.Thí dụ, lý luận cách mạng hoàn toàn không phải là thực tiễn cách mạng. Tuy nhiên vốn được sinh ra bởicác nhu cầu của thực tiễn xã hội, lý luận cách mạng trở thành một bộ phận cấu thành tất yếu của thực tiễn xã hội. Khi tiên đoán tương lai, bản thân lý luận bắt nguồn từ thực tiễn quá khứ và hiện tại. Lý luận hoàn thành một chức năng nào đó trong xã hội không phải là ở ngoài khuôn khổ của thực tiễn, mà là ở bên trong bản thân thực tiễn xã hội.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, theo chúng tôi cần được-vạch rõ cả trên các bình điện bản thể luận lẫn nhận thức luận. Trước hết cần phải phân biệt tính chất của mối liên hệ này với tính chất của mối liên hệ giữa ý thức và vật chất. Vật chất có thể tồn tại thiếu ý thức, song thực tiễn không thể tồn tại thiếu ý thức, đương nhiên là hình thức vả trình độcủa ý thức có thểrất khác nhau ( cho tới tư duy lý luận). Nếu các đặc tính "thử nhất" và "thứ hai" áp dụng được vào quan hệ giữa vật chất và ý thức, thì chúng lại không áp dụng được vào quan hệ giữa thực tiễn và ý thức. Theo chúng tôi, ở đây chỉ có thể nói tới phương diện chủ đạo của một chủ thể thống nhất.Nói cách khác, xét về phương diện bản thể luận, lý luận và thực tiễn tạo thành một thể thống nhất trong hoạt động xã hội tổng hợp. Sự đối lập của chúng trong khuôn khổ của sự thống nhất này là tương đối. Mặc dù vật chất và ý thức là các mặt đối lập tương đối về mặt bản thể luận, song vật chất là tiên đề, là nguyên nhân phát sinh của ý thức, trong khi đó thực tiễn không thể thiếu ý thức.
Xét về phương diện nhận thức luận, nếu vật chất và ý thức là tuyệt đối đối lập , thì thực tiễn và lý luận lại không tuyệt đối đối lập nhau. Mọi ý kiến khác đều có nghĩa rằng thực tiễn, về nguyên tắc, không thể là phương tiện đối chiếu tri thức về hiện thực và bản thân hiện thực.Trong lý luận nhận thức, tri thức về đối tượng tuyệt đối độc lập với bản thân lý luận. Các nhà duy vật trước Mác đã nhìn thấy điều đó nhưng họ không biết đối chiếu tri thức với đối tượng và do vậy, họ đã bất lực trước các lý lẽ của chủ nghĩa duy tâm và bất khả lý luận. Nếu tuyệt đối đối lập thực tiễn với lý luận, thìchúng ta cũng sẽ vấp phải vấn đề đó. Vậy, đâu là bước chuyển từ lý luận đến thực tiễn? Trong khi đó cuộc cách mạng được C.Mác thực hiện trong nhận thức luận chính là ở chỗ: ông đã đưa thực tiễn vào lý luận nhận thứcở lĩnh vực mà ý thức tuyệt đối đối lập với vật chất, Mác đã phát hiện ra khâu trung gian, bước chuyển từ cái ý niệm đến cái vật chất và từ cái vật chất đến cái ý niệm. Thực tiễn xã hội hoàn thành vai trò thước đo chân lý và cơ sở của nhận thức chính là do nó không đối lập tuyệt đối mà đối lập tương đối với ý thức về mặt nhận thức luận và do nó luôn là hệ thống những hoạt động nhằm đạt tới mục đích xác định. Do vậy, không nên tuyệt đối hoá cả tính chủ quan lẫn tính khách quan của thực tiễn.
Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận là một quá trình mang tính lịch sử - xã hội cụ thể. Quan hệ giữa chúng là quan hệ biện chứng. Nắm bắt được tính chất biện chứng của quá trình đó, theo chúng tôi, là tiền đề quan trọng bậc nhất giúp chúng ta luôn có được một lập trường thực tiễn sáng suốt,tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận, cũng như chủ nghĩa giáo điều máy móc và bệnh lý luận suông.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường