Vấn đề tự ý thức trong triết học Êpiquya
Triết học Êpiquya (341- 270,
Khi giải quyết vấn đề trên, Êpiquya đã đưa ra một quan điểm mang đậm sắc thái đạo đức. Khi khẳng định sự không phụ thuộc của con người vào số phận, ông đã tập trung phân tích các điều kiện đảm bảo cho hạnh phúc của con người, nhất là các điều kiện không phụ thuộc vào một bối cảnh chính trị - xã hội cụ thể. Với những thành tựu đạt được trong lĩnh vực này, ông được coi là "người đã xây dựng nên một học thuyết độc đáo về vu trụ, là người khát khao tìm ra trong đó vị trí xứng đáng của cá nhân con người mà ông tin tưởng sâu sắc vào các giá trị của nó". Êpiquya đặt ra nhiệm vụ tìm hiểu các cách thức mà con người sử đụng để đạt tới phương thức sinh tồn tốt nhất, các cách thức mà con người sử đụng để thiết lập mối quan hệ với thế giới xung quanh nhằm đạt tới trạng thái không sợ hãi trước các hiện tượng tự nhiên và tạo lập một cuộc sống nội tâm yên ổn. Ông coi điều kiện
Một đóng góp quan trọng khác của Êpiquya là ở chỗ, ông đã nhận thấy rõ ý nghĩa nhận thức luận và thực tiễn của bức tranh
Trong nền triết học Hy Lạp cổ đại, Êpiquya được coi là người kế tục xuất sắc triết học tự nhiên của Đêmôcrít. Tuy nhiên, Êpiquya đã có những chỉnh lý nhất định đối với triết học tự nhiên ấy với mục đích tìm kiếm một logic hợp lý cho việc xây dựng bức tranh
Trong luận án tiến sĩ của mình - "Sựkhác nhau giữa triếthọc tự nhiên của Đêmôcrít và triết họctự nhiên của Êpiquya",C.Mác nhấn mạnh rằng, tư tưởng "đi chệch hướng của nguyên tử" là tư tưởng xuyên suốt toàn bộ triết học Êpiquya, đóng vai trò là nguyên tắc lý luận chung:
Khi áp dụng nguyên tắc này vào các lĩnh vực khác, như ý thức và hoạt động, sự khoái cảm, cái thiện và cái ác, thái độ chính trị... Êpiquya đã đi đến kết luận về “sự đẩy" vớitư cách làhình thái thứ nhất của tự ý thức.Và khi áp dụng nguyên tắc về sự phủ định vận động vào con người, ông đã rút ra kết luận về bản chất khách quan của con người riêng biệt,về tính độc lập tương đối của nó, tính độc lập thể hiện với tư cách là căn cứ và nguồn gốc của tự ý thức con người. Nhưng để con người với tư cách là con người trở thành chủ thể hiện thực duy nhất của mình, theo C.Mác, con người phải kìm nén tồn tại hiện có của mình, phải hạn chế sức mạnh của đục vọng và bản tính mù quáng trong mình.
Với tư tưởng biện chứng ấy, Êpiquya đã tiến hành luận chứng cho bản chất của tự ý thức. Ông cho rằng, nguồn gốc của tự ý thức là sự tự vận động của nguyên tử (con người) dưới hình thức tồn tại độc lập tương đối. Từ quan niệm đó, ông đã tiến hành luận chứng về phương diện bản thể luậncho tự do cá nhân. Thực ra, đây chỉ là tư tưởng về tính chất biện chứng của sự phủ định, song nó có một ý nghĩa phương pháp luận to lớn. Tư tưởng này đã được Êpiquya áp dụng để xác định hàng loạt đặc tính và quan hệ của con người. Chẳng hạn, khoái cảm được ông coi là sự phủ định của đau khổ khi xem xét nó và sự đau khổ của con người trong một thể thống nhất cụ thể. Êpiquya cho rằng, người ta chỉ có thể xác định được bản chất đích thực của khoái cảm (và đau khổ) khi nắm bắt được thế giới về mặt triếthọc một cách sáng suốt. Chính sự sáng suốt ấy, theo Êpiquya, là điều kiện chân chính của hạnh phúc, còn bản thân triêthọc là hình thái cao nhất của tự ýthức của chủ thể.Với quan niệm này, ông đánh giá cao tri thức của con người, đánh giá cao khả năng vận dụng tri thức triết học vào việc xác định phương thức hành động và lối ứng xử của con người. Rằng, chính là do vậy mà các nhà triết học đều luôn xuất phát từ niềm tin vào sức mạnh tinh thần của con người. Quan hệ của con người với con người, theo Êpiquya, là quan hệ tự do, có mục đích, và do vậy, đó cũng chính là hạnh phúc của con người. Còn phương tiện để đạt tới quan hệ ấy là sự sáng suất được luận chứng thông qua bức tranh triết học về thế giới.
Từ quan niệm chung đó về thế giới, con người sẽ tìm thấy các biểu tượng và quy tắc mà dựa vào đó, nó đánh giá các sự kiện hiện thực là hưu ích hay vô ích, ác hay thiện, có khả năng hay không có khả năng đem lại hạnh phúc cho con người.
Mục đích lý tưởng mà Êpiquya đặt ra cho triết học tự nhiên của ông là đạt tới sự yên tĩnh, sự bình ổn trong tâm hồn con người. Coi đó là mục đích cuối cùng của triết học tự nhiên của mình, ông đã lý giải sự bình thản của tâm hồn là sự thống nhất giữa tâm hồn với tự nhiên, là sự nhận thức sáng suốt các quy luật của tự nhiên và hiện thực hoá tri thức trong cuộc sống.
Ông cho rằng, con người chỉ có thể đạt được mục đích đó khi tiến hành các hoạt động nhận thức một cách sâu sắc để trên cơ sở đó, xây dựng thế giới quan, tố chức xã hội dựa theo nguyên tắc xây đựng thái độ sáng suốt đối với cuộc sống.
Vai trò tích cực của triết học Êpiquya trong đời sống xã hội
Ở Đêmôcrít, việc nghiên cứu tự nhiên được coi là mục đích, là cái có khả năng tự mình làm cho con người trở nên tự do và hạnh phúc. Còn ở Êpiquya, nghiên cứu tự nhiên là tìm kiếm các phương thức hoạt động của con người, tìm kiếm các điều kiện đảm bảo cho tự do và hạnh phúc của con người. Phương thức mà Êpiquya đưa ra là hợp nhất xãhội dựa trên nguyên tắc cơ bản là sự sáng suất đích thực trong nhận thức và nguyên tắc về sự bình đẳng. Khi xây dựng hệ thống triết học của mình, Êpiquya đã đưa vào đó nguyên tắc phê phán. Ông tiến hành phê phán các chuẩn mực xã hội hiện hành, nhấn mạnh tính tương đối của chúng. Tính tương đối của các chuẩn mực xã hội ấy, theo Êpiquya, được quy đính bởiviệc chúng là sản phẩm hoạt động của bản thân con người. Với quan niệm ấy, ông đã cố gắng luận chứng cho sự phê phán đó cửa mình bằng toàn bộ tư tướng triết học tự nhiên mà ông đưa ra.
Có thể nói, triết học Êpiquya là một giai đoạn phát triển một trong đời sống tinh thần ở Hy Lạp cố đại. Mặc dù trước ông, nguyên tắc phê phán đã được Xôcrát đưa vào hệ thống triết học của mình, song so với Xôcrát, triết học Êpiquya là một bước tiến đáng kể trong việc phát triển nguyên tắc phê phán. Với quan niệm cho rằng, bản thân thực thể luôn chứa đựng mâu thuẫn nội tại, Êpiquya đã đi đến khẳng định: trong thực tế, người ta có thề tìm thấy sự luận chứng cho quyền lực của chủ thể, cái quyền lực đã trớ thành người phán xét thế giới, phán xét xã hội và phán xét cả bản thân mình. Xét theo bản chất của nó, con người có tự do cá nhân và sự tự do ấy được thiết định một cách khách quan. Con người có khả năng nhận thức được các điều kiện tồn tại của mình, thấy được sự phù hợp hay không phù hợp giữa họ và các nhu cầu tự nhiên của họ. Các điều kiện tồn tại của con người (luật pháp, chuẩn mực xã hội...) chỉ là tương đối, con người có quyền và có khả năng (nhờ triết học) bác bỏ các điều kiện ấy. Kế thừa và phát triển học thuyết nguyên tứ của Đêmôcrít, Êpiquya đã sử đụng học thuyết nguyên tử mà ông xây dựng nên để luận chứng về phương diện triết học cho sự tựdo cánhân của con người cho quyềnthay đổi các điều kiện tồn tạicủa con người. Quan hệ của con người với thế giới, theo Êpiquya, luôn chứa đựng mâu thuẫn và thường xuyên biến đổi. Với tư cách là một thực thể đặc biệt, thực thể có lý tính, con người có thể điều tiết một cách có ý thức mối quan hệ của mình với thế giới theo hướng tạo ra các điều kiện tồn tại thuận lợi cho mình. Với quan niệm đó, ông cho rằng, mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội cũng chính là mâu thuẫn giữa xã hội và tự nhiên. Và do vậy, theo ông, người ta chỉ có thể thủ tiêu mâu thuẫn đó bằng cách tạo ra một hình thái xã hội mới dựa trên nguyên tắc hợp lý của các quy phạm đạo đức và phù hợp với bản tính của con người, với các quy luật của tự nhiên.
Như vậy, có thể nói, so với quan niệm của các nhà triết học tiền bối, quan niệm về vấn đề tự ý thức của Êpiquya có nhiều điểm mới và sâu sắc hơn. Song trong quan niệm của ông vẫn còn có nhiều hạn chế, những hạn chế đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất,tính chất không tưởng trong các điều kiện mà Êpiquya đưa ra để con người tự khẳng định mình trong thế giới.
Thứhai, Êpiquya đã áp dụng một cáchmáy móc học thuyết nguyên tử vào việc lý giải tồn tại cá nhân của con người.
Thứ ba, Êpiquya đã đưa ra một quan niệm mang tính tương đối chủ nghĩa về bản chất của các chuẩn mực xã hội (tính tương đối của các chuẩn mực xã hội được đem đối lập với tính tuyệt đối của quy luật tự nhiên, chứ không phải với các chuẩn mực xã hội mới).
Thứtư, quan niệm về tự ý thức của con người được Êpiquya xây dựng trên nguyên tắc khẳng định cái riêng, phú định cái
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường