Vấn đề tính chủ quan trong hiện tượng Husserl
Vốn là một người đam mê khoa học tự nhiên, E.Husserl nổi danh rất sớm với luận
Chúng ta đều biết, ngay ở thời kỳ hoàng
Tiếp tục cách đặt vấn đề của Lốccơ về kinh nghiệm hội tại, với tư cách một trong hai nguồn gốc của tri thức, Brentanô đã xây dựng một học thuyết độc đáo về ý thức, trong đó ông phân biệt sự khác nhau giữa những hiện tượng tâm lý và những hiện tượng vật lý, và ở mức độ tinh tế hơn, ông đã chỉ rõ sự khác nhau về phương thức hiệnhữu của chúng trong ý thức. Quan điểm triết học của Brentanô, đặc biệt là vấn đề tinh ý hướng" mà ông đề xuất trong những năm cuối đời trên cơ sở kết hợp tinh tế những khái niệm tâm lý học với nhũng khái niệm bản thể luận đã có ảnh hưởng đến toàn bộ sự nghiệp triết học của Husserl. Tuy nhiên, trên con đường tìm kiếm tri thức nhân văn. Husserl còn khai thác những tư tưởng của Đêcáctơ, Hium, Cantơ...
Thoạt đầu, do chịu ảnh hưởng của Brelltanô và do chưa hoàn toàn thoát ly những suy tư toán học, Husserl chủ yếu tập trung vào những vấn đề triết học của toán học. Trong công trình Triếthọc củasố học (1891), ông đã cố gắng luận chứng về phương diệu triết học - tâm lý học cho những cấu trúc toán học cơ bản. Tuy nhiên, cố gắng đó đã bị G.Phrêbơhe - nhà logic học, toán học và triết học người Đức phê phán và coi những lập luận của ông chỉ là một thứ chủ nghĩa duy tâm lý. Sau đó, Husserl đã dành 10 năm (1891 - 1900) chuyên tâm nghiên cứu các vấn đề logic, các lý thuyết về tri thức, những vấn đề có liên quan đến cả logic học, bản thể luận và tâm lý học mô tả. Tác phẩm Những nghiên cứulogic (1901) - tác phẩm đầu tiên đích thực hiện tượng họcchính là kết quả của 10 năm khổ công đó.
Lời nói đầu in riêng của tác phẩm này là sự đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm lý và bước đầu xác định phương hướng nghiên cứu mới. Ở đây, Husserl đã phê phán mọi mưu toan diễn đạt những tri thức cơ sở của toán học, triết học, logic học như là những bộ phận của tâm lý học kinh nghiệm. ông chỉ rõ đặc trưng của chủ nghĩa duy tâmlý là ở chỗ quy giản cácthực thểlogic, chẳng hạn các mệnh đề phổ quát về các trạng thái tinh thầnhay hoạtđộng tinh thần.Chủ nghĩa duy tâm lý, về thực chất: là những thử nghiệm nhằm diễn đạt những mối liên hệ logic như những trường hợp riêng của mối liên hệ mang tính chất tâm lý. Trong quan niệm của Husserl, các thực thể logic, các con số, các mệnh đề, các liên hệ logic
Do chịu ảnh hưởng của Cantơ, khi luận chứng cho đối tượng và nhiệm vụ của môn khoa học mới, Husserl đã phân biệt giữa "vật như nó được đem lại cho ta" với "vật tự nó” (theo nghĩa là vật như tự thân nó tồn tại) và tuyên bố khoa học của ông chỉ miêu tả vật như nó được đem lại cho cho chúng ta mà thôi. Vật như nó được đem lại cho chúng ta rõ ràng chỉ tồn tại trong ý thức. Khoa học của ông không hướng vào những đối tượng được giả định một cách ngây thơ là đang tồn tại. Theo ông, chúng ta cần phân biệt sự hiện diện mang tính trực giác với khái niệm có tính chất biểu tượng và nói một cách dễ hiểu hơn, đó là sự phân biệt giữa cái thực tại với cái ý niệm, giữa bản thân đối tượng và nghĩacủa nó đối với mỗi người. Không những thế, nếu ý thức không chỉ hướng ra bên ngoài mà còn hướng vào bên trong, vào các dòng ấn tượng cũng như các động thái của nó thì cũng cần phân biệt các loại đối tượng khác nhau của ý thức. Ý thức không chỉ có các đối tượng vật chất, mà còn có cả những "đối tượng mang tính phạm trù” (hay những đối tượng mang tính tư tưởng) những đối tượng được kiến tạo qua sự suy xét: các điều kiện, các quan hệ... Tương ứng với những dạng đối tượng này, theo ông, ý thức hay nhận thúc bao gồm những khái niệm gián tiếp - những khái niệm mà nội dung chỉ dần dần có được trong quá trình xác định nghĩa của đối tượng và những khái niệm trực tiếp hay trực giác mà nội dung của chúng được lấp đầy ngay khi ý thức hướng vào đối tượng. Cấu trúc hình thức của "những đối tượng mang tính phạm trù” gắn liền với chức năng ngữ pháp của ngôn ngữ. Bởi vậy, sự nhận thức chúng chỉ được thực hiện qua lời nói. Nghĩa của chúng phải được rút ra khỏi cái vỏ tâm lý học và ngữ pháp, và đương nhiên, khỏi đối tượng. Husserl tuyên bố con người có thể có khả năng trực giác trí tuệ với những đối tượng thuộc dạng đó và
Husserl cho rằng, sự vật đó, cái thực tại dược đem lại cho chúng ta bằng nhiềucách khác nhau là cái mà triết học phải tập trung miêu tảchính xác sự hiện hữu của nó trong ý thức. Nhiệm vụ của triết học không phải là kiến tạo những học thuyết có phạm vi quá lớn hay bảo vệ các hệ tư tưởng, mà ngược lại, cần tập tung phân tích, chẳng hạn, những đối tượng được lĩnh hội như thế nào và chúng tuỳ thuộc đến mức độ nào vào các hoạt động nhận thức, như nhìn thoáng qua, tập trung hay xem xét mà không đụng chạm đến chúng. Triết học nên miêu tả các cách thức mà, theo đó, những dạng tồn tại khác nhau như những đối tượng vật chất, những sự vật sống, những con người, những khách thể văn hoá… đều có thể được đem lại cho chúng ta. Hơn nữa, triết học cần làm rõ quá khứ và hiện tại đã được con người hình dung như thế nào, "độ lâu”, các con số, không gian, thời gian và cả cơ thể của chính chúng ta dược đem lại cho chúng ta ra sao. Với tinh thần thử nghiệm, Husserl đã thực hiện những sự phân tích đó đối với ý thức của bản thân và trong mọi trường hợp, ông đều phân biệt đối tượng được đem lại trong ý thức với hoạt động ý thức của chủ thể - hoạt động mà chủ thể đó phải tiến hành sao cho đối tượng dược lĩnh hội. Ở đây, chúng ta thấy rõ ràng ảnh hưởng của Cantơ sau những ý tưởng này của Husserl. Ông gọi sự miêu tả hiện tượng học về đối tượng là "sự phân tích đối tượng" mà thực chất, đó là sự mô tả đối tượng
Tính ý hướng(intentionality) là một trong những khái niệm vào loại quan trọng bậc nhất của hiện tượng học. Khái niệm này có liên quan đến vấn đề dã bàn trước đây vấn đề khái niệm gián tiếp và khái niệm mang nội dung trực tiếp. Husserl dùng khái niệm tính ý hướngđể chỉ mối quan hệ của ý thức với sự vật dù sự vật đó được đem lại một cách trực tiếp hay nó chỉ được ám chỉ đến khi "không hiện diện". Ý thức bao giờ cũng là ý thức về một cái gì đó. Nhưng "cái gì đó” ấy là cái tồn tại đã qua suy xét cái được kiến tạo. Chính vì vậy, theo Husserl, cần phân biệt mặt "hiện thực" hay mặt thời gian với mặt "tâm tính" của hành vi ý thức, nghĩa là cần phân biệt "dòng chảy các ấntượng” xuất hiện trong ý thức với hành vi hướng vào các ấn tượng ấy của chính ý thức. Ở đây, ông gọi tính có đối tượng của hành vi là "nghĩa" hay "văn cảnh" và chỉ rõ đó là đối tượng được nói đếntrong sự phân biệt với đối tượng phổ biến. Nghĩacủa đối tượng cũng là một tồn tại mang tính tinh thần nhưng không phải là một hình thái tinh thần.
Như đã nói, nhược điểm của Những nghiêncứu logiclà vẫn chịu ảnh hưởng của Cantơ, đặc biệt là sự phân biệt "vật tự nó" với "vật như nó được đem lại cho ta". Trong những năm 1900 - 1910, thông qua sự phản tư sâu sắc hơn về những trải nghiệm thời gian, về ký ức và về bản chất của tư duy triết học, Husserl đã khắc phục được sự phân biệt kiểu Cantơ này và khẳng định rằng "vật tự nó" có thể được đem lại cho chúng tanhư là tính đồng nhất có trong một tập hợp những hiện hữu. Quan điểm mới này được đưa ra trong tác phẩm Những ý niệm liên quan đến một Hiện tượng học thuần tuý và một Triết học hiện tượnghọc, hay còn gọi là Những ý niệm(1918) - tác phẩm đã bị rất nhiều người hiểu một cách sai lầm như là thái độ chấp nhận chủ nghĩa duy tâm truyền thống của Husserl.
Husserl đã nhiều lần nói về bản chất của tư duy triết học. Ông phân biệt tâm thế tự nhiêntức là tình trạng bị cuốn hút một cách ngây thơ vào các sự vật và thế giới do ảnh hưởng của khoa học tự nhiên, của quan niệm hàng ngày và của triết học cổ điển, với tâm thế triếthọc quan điểm phản tư mà từ đó chúng ta thực hiện sự phân tích đối với những khái niệm đã được sử dụng trong tâm thế tự nhiên và những đối tượng tương ứng với những khái niệm này. Khi bước vào tâm thế triết học, chúng ta đặt ra ngoài mọi ảnh hưởng hay tạm gác lại những khái niệm và mọi quyết đoán của tâm thế tự nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta nghi ngờ hay phủ định chóng, mà chỉ có nghĩa là tạo ra một khoảng cáchvới chúng và xét đoán cấu trúc của chúng. Husserl gọi việc "tạm gác lại” này là "sự kiềm chế hiện tượng học”. Ông muốn thuật ngữ "epoché" từ trường phái Xiníc - một trường phái triết học xuất hiện vào giai đoạn suy tàn của văn hoá Hy Lạp cổ đại. Nó có nghĩa là "sự treo lên lòng tin vào tính hiện thực của mối liên hệ được nêu lên trong sự phán đoán”. Tất nhiên. trong đời sống người, chúng ta đều xuất phát từ "tâm thế tự nhiên". Để đạt đến "tâm thế triết học", chúng ta không những phải "kiềm chế", mà còn phải làm cho ý thức trở nên trong sạch, nghĩa là làm cho ý thức trút bỏ được nội dung đối tượng, chỉ còn lại những đặc tính vốn có của con người. trở thành "ý thức thuần tuý". Quá trình mà nhờ đó chúng ta chuyển sang "tân thế triết học" được gọi là phép quy giản hiện tượng học -một bước lùi từ những niềm tin mang tính tự nhiên để trở lại sự suy xét đối với những khái niệm và những đối tượng của chúng. Trong "tâm thế triết học", chúng ta cần xem xét một cách kỹ càng những khái niệm mà chúng ta thường lướt qua, những khái niệm vẫn tác động một cách âm thầm trong tình trạng chúng ta bị cuốn hút một cách ngây thơ vào thế giới. Trong toàn bộ sự nghiệp của mình, Husserl đã thứ nghiệm những cách thức quy giản khác nhau hoặc những lý luận khác nhau để kiến tạo triết học. Đôi khi, ông cố bắt chước sự nghi ngờ mang tính phương pháp của Đêcáctơ, lại có lúc, ông cố chỉ ra rằng, những khoa học có định hướng vào thế giới cần bổ sung sự phản tư hiện tượng học, nếu chúng thực sự muốn trở thành khoa học.
Một trong những đặc điểm dễ thấy của "tâm thế tự nhiên" là nó chấp nhận một cách đơn giản thế giới này như là nền tảng cuối cùng của tất cả những kinh nghiệm và niềm tin đặc thù hơn của chúng ta.
Husserl còn đưa ra một sự phân định giữa hành vi lắp lại lời nói một cách không suy nghĩ, thụ động với hoạt động có sự suy xét rõ ràng, hoạt động mà trong đó, chủ thể hoạt động thực hiện sự suy xét minh bạch về chính mình.Tư duy rõ ràng tự nó, theo ông, vẫn có thể rơi trở lại tình trạng thụ động hoặc trở nên một thứ "cặn bã" khi người ta coi nó là đúng một cách hiển nhiên và tiếp tục các bước tư duy trên cơ sở đó. Thứ tư duy "cặn bã", thụ động như vậy có thể hàm chứa tính mâu thuẫn, tính không rõ ràng và do vậy phải làm cho nó tích cực trở lại, làm cho ý nghĩa của nó được phục hồi và có lẽ, việc áp dụng logic học hình thức có thể xem như hoạt động suy xét đã được tiến hành.
Trong những phân tích nhờ phản tư hiện tượng học, chúng ta miêu tả những hành vi ý hướng khác nhau và cũng có thế khám phá được cái "Tôi" với tư cách chủ thể hay tác nhân đằng sau những hành vi này. Với quan niệm đó, Husserl đã phân biệt cái Tôi tâmlý học cái Tôi đóng vai trò như một bộ phận của thế giới, với cái Tôi tiên nghiệm, cái Tôi đóng vai trò như một kẻ có thế giới riêng của nó, cái Tôi gắn liền với chân lý và do đó, gắn liền với những lĩnh vực đã "vượt quá" thế giới này.
Husserl luôn tìm cách giải thích "tính nước đôi” rất đáng chú ý của cái "Tôi". Đó vừa là cái gì thuộc về thế giới (với tư cách là tồn tại người), vừa là cái gì "vượt quá" thế giới (với tư cách một trung tâm nhận thức có khả năng chiếm lĩnh hay ban bố nghĩa cho thế giới).
Một trong những đóng góp quan trọng nhất của Husserl là sự phân tích về ý thức đối với độ dài thời gian nội tâm và quan hệ của nó với tính đồng nhất của chính mình. Đây cũng là đề tài mà ông thường trở đi trở lại ông phân biệt giữa thời gian mang tính khách quan của thế giới với thời gian bên trong của "dòng chảy các trải nghiệm” của chúng ta (chẳng hạn các hành vi nhận thức, hành vi suy xét và những ký ức) và cuối cùng là với một cấp độ thậm chí còn sâu hơn mà ông gọi là ý thức vềthời gian nội tâm.Chính ở cấp độ thứ ba này, cấp độ sâu nhất - ý thức về thời gian nội tâm,chúng ta có thể trải nghiệm ngay cả đối với các hoạt động tinh thần với tư cách cái mang tính thời gian. Cấp độ sâu sắc nhất này cũng đưa lại giới hạn cuối cùng mà trong đó, tính đồng nhất của cái Tôi được thiết lập. Với nó, một mặt, chúng ta đạt được tính đồng nhất của ý thức thông qua các ký ức mà chúng ta lưu giữ và gợi lại, mặt khác, chính các ký ức này phải được kết nối bởi cấp độ sâu nhất của tính thời gian để có thể phục hồi lại với tư cách những gì thuộc về mộtchủ thể. Husserl nhấn mạnh rằng, ở cấp độ sâu nhất của "ý thức thời gian nội tâm", chúng ta không bao giờ có được một hiện tại đơn giản cuối cùng (giống như quan niệm nguyên tử là đơn vị vật chất cuối cùng), cái chúng ta đạt đến như là giới hạn tối hậu thực ra chỉ là một hình thái chuyển dịch - hình thái mang trong mình cả cái quá khứ vừa trôi qua lẫn một sự kéo dài của cái đang đến và một điểm trung tâm. Hình thái "ý thức về thời gian nội tâm" này, cái hình thái mà Husserl gọi là hiện tại sống, thậm chí còn đứng trước cái Tôi và là một loại “điểm apec" mà chỉ có thể đạt đến bằng sự phân tích hiện tượng học của ông.
Một trong những chủ đề quan trọng mà Husserl khai thác trong những năm cuối của sự nghiệp nghiên cứu triết học của ông là vấn đề thế giới sống. Khái niệm này đã được ông đề cập trong tập thứ hai của bộ Những ý niệm. Ông tuyên bố rằng, sự trừu tượng hoá khoa học và toán học có nguồn gốc từ trong thế giới tiền khoa học - cái thế giới mà trong đó, chúng ta đang sống. Thế giới này có những cấu trúc hiện hữu của riêng nó, có tính đặc thù, tính xác thực riêng và có chân lý riêng; nó tạo ra nền tảng cho thế giới khoa học được tạo lập. Và do vậy,
Có thể nói, tất cả những nỗ lực trên đây của Husserl đều nhằm làm sáng tỏ những gì sâu thẳm nơi mỗi con người, những gì gắn liền với mọi suy tư và hoạt động của họ. Những yếu tố đó không loại trừ ý thức (
Những tư tưởng của Husserl có tầm ảnh hưởng hết sức to lớn trong triết học suốt cả thế kỷ XX. Khái niệm tính ý hướngcủa ông được hiểu như một cách khắc phục chủ nghĩa nhị nguyên của Đêcáctơ về mối quan hệ giữa tinh thần và thế giới. Những nghiên cứu của ông về các ký hiệu, các hệ thống hình thức, về bộ phận và chỉnh thể vẫn còn có giá trị trong chủ nghĩa cấu trúc và trong nghiên cứu văn học. Khái niệm thế giới sốngcủa ông vẫn được sử dụng như một phương hướng hợp nhất khoa học với những hình thức phong phú của hoạt động người. Những vấn đề về tính đặc thù của triết học, lĩnh vực đối tượng của nó, con đường xây dựng một triết học mới, khác về nguyên tắc với triết học truyền thống, những luận giải cho việc làm sáng tỏ ý thức, mô tả tính chủ quan, những dòng ý thức… đã được Haiđơgơ, Xáctơrơ và nhiều người khác tiếp tục. Những khái niệm về thời gian, về cá tính vẫn phát huy ảnh hưởng trong các lý thuyết phân tích tâm lý và trong chủ nghĩa hiện sinh. Ông được coi là người đã truyền cảm hứng mạnh mẽ cho các khoa học nhân văn và gần đây: người ta đã chứng minh rằng, những tư tưởng của ông cũng có ích cho những người nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học nhận thức và nghiên cứu trí tuệ nhân tạo. Với những đóng góp trên, Husserl đã được thừa nhận là người sáng lập nên hiện tượng học - một trong những khuynh hướng chủ yếu của triết học và văn hoá học phương Tây thế kỷ XX.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan Đăng