Pháp luật – Tài sản tinh thần của nhân dân
Từ trước đến nay, tự do luôn được quan niệm như là một tài sản tự nhiên hay một quyền tự nhiên của con người và xã hội được cấu thành từ sự góp một phần tự do của con người. Xuất phát từ đòi hỏi xã hội phải được điều chỉnh bởi những quy tắc nhất định, pháp luật đã ra đời. Bản chất của pháp luật là các khế ước xã hội, tức là kết quả của sự thỏa thuận của mọi người. Nếu thỏa mãn điều kiện này, sự tự nguyện nhượng bớt một phần tự do cá nhân sẽ đưa đến sự hình thành của nền dân chủ ở đó, tự do không chỉ đơn thuần là tự do bản năng mà sẽ có chất lượng cao hơn, tức là tự do mang trong mình sự hài hòa lợi ích giữa các cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng và ở mức độ cao hơn nữa, tự do như là, phát triển. Tuy nhiên, rất nhiều quốc gia không nhận thức được điều này. Kết quả là pháp luật trở thành một thứ dây trói hoặc công cụ cai trị và do đó, nó thuộc sở hữu của những kẻ thống trị' chứ không còn là tài sản của nhân dân.
Trong bài viết này, pháp luật sẽ được tiếp cận như một đối tượng triết học nhằm chỉ ra ý nghĩa thiêng liêng nhất của pháp luật đối với đời sống con người - đó là Pháp luật như là tài sản tinh thần của nhân dân hay Biện chứng của Tự do.
Pháp luật – Hình thức thể hiện tập trung nhất toàn bộ giá trị tự do của con người
Bất kỳ sự thỏa thuận nào cũng thể hiện quyền tự do của con người. Khi đối thoại với nhau, với nhà cầm quyền và thậm chí với thần thánh, con người đã thể hiện tự do của mình. Nếu không khẳng định được địa vị của mình, không cảm nhận được giá trị của mình tức không có tự do thì con người sẽ chỉ biết lắng nghe và tuân lệnh mà không thể đối thoại. Pháp luật là khế ước tinh thần của con người với nhau và với nhà cầm quyền và vì thế, pháp luật thể hiện một cách tập trung nhất toàn bộ giá trị tự do của con người. Mối quan hệ giữa tự do và pháp luật là mối quan hệ hệ quả, nói cách khác, pháp luật là hệ quả của tự do. Vấn đề này đã được thảo luận từ thế kỷ XVII, XVIII bởi nhiều học giả lớn, trong đó nổi bật là Montesquieu với 'Tinh thần pháp luật" và Rousseau với “Bàn về khế ước xã hội”. Tuy nhiên, đến nay không phải tất cả mọi người trên thế giới đều nhận ra giá trị của tự do, nhận ra mối quan hệ biện chứng, mối quan hệ nhân quả giữa tự do và pháp luật. Vì thế, không phải tất cả mọi người đều coi pháp luật là sở hữu của mình và ở những chỗ khuất nẻo của cuộc sống, con người vẫn làm những điều phi pháp mà không cảm thấy áy náy. Chỉ khi nào con người nhận ra mình là chủ sở hữu của những quy tắc sống, là đồng sở hữu những khế ước xã hội thì lúc đó con người mới đối xử với pháp luật một cách tự giác.
Không ít người chúng ta sẽ tự hỏi tại sao lại phải cưỡng bức con người tuân thủ pháp luật trong khi pháp luật là tài sản tinh thần của nhân dân, là cái mà đáng ra con người phải tự nhiên tuân thủ? Tại sao tình trạng vi phạm pháp luật vẫn diễn ra tràn lan và càng ngày càng khó kiểm soát? Phải chăng, con người sinh ra là để phản bội lại những đòi hỏi của chính mình? Trong quan điểm của chúng tôi, tất cả những tình trạng này đều bắt nguồn từ những hạn chế trong nhận thức của con người về tự do.
Do đó, cần phải giúp con người nhận thức rằng, tự do không phải là một thứ bất tận và nếu con người không chấm dứt việc chà đạp tự do thì con người sẽ mất tự do, cũng chính là đánh mất những giá trị người của mình. Do đó, xét về bản chất, nghiên cứu pháp luật chính là nghiên cứu tự do với tất cả hình hài cụ thể của nó. Nếu pháp luật không có quan hệ hệ quả với tự do thì pháp luật không có nội dung, hay nói đúng hơn là nghiên cứu pháp luật chính là nghiên cứu cấu trúc văn hóa của tự do. Tự do làm cho con người nhận thức được cả lợi ích lẫn rủi ro trong mỗi hành động của mình; nó, đồng thời, giúp con người tự đánh giá tính hợp lý trong hành động của mình và với nhận thức như vậy, con người sẽ hành động một cách tự giác và thận trọng. Vì vậy, có thể nói, mọi thỏa thuận, mọi khế ước của cuộc sống được thể hiện dưới hai hình thức: luật thành văn là luật pháp và luật bất thành văn là văn hóa. Con người sinh ra, dùng địa vị tự do của mình để thỏa thuận. Sự thỏa thuận ấy có hai hệ quả, hệ quả thành văn là nhà nước - pháp luật và hệ quả thứ hai bất thành văn là các quy tắc cộng đồng hay văn hóa. Tự do, vì thế, là nguồn gốc của mọi trật tự mang tính tự giác; mọi trật tự không có tự do chỉ là trật tự cưỡng bức và con người sẽ chà đạp lên những trật tự cưỡng bức đó. Do đó, tự do hoàn toàn không gắn với sự hỗn loạn như bấy lâu nay các nhà nước phi tự do vẫn áp đặt lên nhận thức của người dân; nó là một khái niệm vĩ đại và cần phải chỉ ra tất cả cách thức con người đùng để ngụy biện cho việc đánh cắp tự do của người khác và nhất là sự đánh cắp trên quy mô nhà nước đối với xã hội.
Từ trước đến nay, chúng ta vẫn quan niệm mục tiêu của pháp luật là giữ gìn trật tự xã hội. Đó là một cách nghĩ quá đơn giản và đã tầm thường hóa vai trò của pháp luật. Chúng tôi cho rằng, sứ mệnh của pháp luật là đảm bảo tự do và phát triển quyền tự do của con người. Nếu pháp luật được định ra bởi ý chí của nhà cầm quyền thay vì là kết quả của quá trình thảo luận và đàm phán giữa các thành viên trong xã hội, thì pháp luật đó sẽ trái với ý chí xã hội và không thể hiện các giá trị tự do. Nếu duy trì tình trạng đơn nguyên trong nhận thức và hành động thì không bao giờ pháp luật trở thành tài sản tinh thần của nhân dân, bởi thông qua các hành động nói chung và đặc biệt là thông qua hành động chính trị, con người sử dụng tự do để xây dựng các khế ước văn hóa và khế ước pháp luật. Thể chế dân chủ là cơ cấu duy nhất để con người thực hiện quyền tự do của mình trong quá trình đàm phán, bởi tất cả các khế ước đều được thể hiện thông qua các quan điểm chính trị và con người lựa chọn người đại diện cho mình thôn gí qua việc đàm phán ấy, chính là lựa chọn ra cấu trúc của khế ước. Nói cách khác, dân chủ là cách thức duy nhất để kéo tự do xuống các tầng hàng ngày của cuộc sống.
Tự do sinh ra con người và hành trình tìm lại tự do bị đánh cắp
Từ trước đến nay, người ta luôn cho rằng, con người sinh ra đã có tự do; tuy nhiên, trên thực tế, ở một số nơi trên thế giới, con người hoàn toàn không có tự do. Điều này, đương nhiên, đã phủ nhận chân lý con người sinh ra đã có tự do nhưng đồng thời, lại đưa đến một kết luận mới - đó là Tự do sinh ra Con người (*), hay nói khác đi, tự do sinh ra tất cả các quyền làm người. Đó cũng chính là ý nghĩa thiêng liêng nhất của tự do.
Hãy thử quan sát những gì đang diễn ra ở các nhà nước phi dân chủ, nơi tự do của con người đã bị đánh cắp từ trước khi sinh ra. Liệu có thể coi con người ở những quốc gia như vậy đã đạt đến trạng thái phát triển hoàn chỉnh chứa trong khi họ đang sống một đời sống rất phi con người với những giá trị người đang ngày càng suy thoái? Vì thế, nếu thừa nhận con người sinh ra đã có tự do thì vô tình chúng ta đã tạo ra cơ sở tồn tại hợp pháp cho các nhà nước phi dân chủ. Với cách tiếp cận như vậy, chúng ta buộc phải thừa nhận một chân lý khác - đó là tự do sinh ra con người; nói khác đi, tự do là nguồn sống của con người. Nếu coi tự do như một thứ tài sản thì con người sẵn lòng chà đạp tự do của chính mình và chiếm đoạt tự do của người khác, bởi không ai chết khi tự chà đạp tài sản của mình hay khi bị tước đoạt tài sản. Nhưng, nếu coi tự do là nguồn sống của con người thì con người sẽ ứng xử một cách chừng mực và thận trọng hơn với tự do, bởi con người sẽ chết khi bị chà đạp hay khi bị tước đoạt nguồn sống của mình. Với ý nghĩa như vậy, có thể nói, tự do là chất xúc tác để các sinh vật ở trạng thái tiền con người trở thành con người và không có tự do là không có môi trường để con người thực sự sống với tư cách con người.
Mặt khác, cần chỉ ra mối tương quan giữa hai phạm trù tự do và bình đẳng. Rõ ràng, không có tự do, chúng ta sẽ không có những con người theo đúng nghĩa và đi theo chuỗi logic này, chúng ta sẽ nhận ra sự vô lý khi các nhà nước phi dân chủ bàn đến sự bình đẳng hay bác ái giữa con người và những sinh vật ở trạng thái tiền con người. Và rằng, tự do chỉ tồn tại, hay nói cách khác, con người chỉ có thể sử dụng tự do và phát triển khái niệm tự do khi có sự tương tác với những con người khác. Trong khi đó, một xã hội phi dân chủ không phải là môi trường để con người thể hiện mình với tư cách là con người. Do đó, nếu tiếp tục đánh cắp tự do của con người, các nhà nước phi dân chủ sẽ phải chịu đựng hậu quả tất yếu là sự biến mất vĩnh viễn của những giá trị người. Những nghiên cứu nghiêm túc về tự do sẽ khiến những nhà nước phi tự do nhận ra sự tồn tại bất hợp pháp của mình và giúp con người ý thức về sự tồn tái tvô lý của mình. Nếu tồn tại mà không có tự do từ tư duy đến hành động thì chúng ta chưa phải là những con người hoàn chỉnh. Muốn đạt tới trạng thái con người hoàn chỉnh thì chúng ta phải phấn đấu để tự do thấm vào tất cả các hoạt động của mình. Tự do là nội dung đúng đắn của mọi hành động cũng như sáng tạo của con người. Nếu không có tự do trong ý nghĩ thì chúng ta không thể tự sáng tạo ra giá trị của mình và càng không thể đàm phán một cách bình đẳng để tạo ra những khế ước có chất lượng pháp luật và văn hóa. Nếu không hiểu được mối quan hệ biện chứng giữa tự do và con người, thì sẽ không hiểu được luận điểm pháp luật là tài sản tinh thần của nhân dân và càng không hiểu được mối quan hệ giữa tự do và văn hóa, tự do và pháp luật, hay nói chung là giữa tự do và xã hội. Không có tự do thì không có con người và hơn nữa là không có tự do thì không có xã hội loài người. Phấn đấu vì tự do và dân chủ, do đó, đã trở thành nhiệm vụ số một của mọi quốc gia trên thế giới này.
Tuy nhiên, con người không bao giờ chấp nhận sự tồn tại ở trạng thái tiền con người của mình; họ dần nhận ra rằng, nếu không có tự do thì những giá thị mang chất lượng con người sẽ biến mất vĩnh viễn và bởi tự do là khoảng không gian hợp lý duy nhất tạo ra con người, nên những khao khát về tự do sẽ khiến con người bùng nổ và họ sẽ đòi lại tự do bằng cách mạng. Đó là những con người, những dân tộc không may mắn và ở đây, xin được nhấn mạnh rằng, chúng ta không được phép nhân danh nỗi bất hạnh của con người để ngụy biện cho sự tồn tại của những nhà nước phi dân chủ.
Nhưng liệu những cuộc cách mạng có phải là những giải pháp tối ưu trong khi cách mạng là một loạt hoạt động rất bản năng và luôn để lại đằng sau nó những chuỗi đứt gãy đột ngột? Trong khi đó, tiến trình phát triển của con người phải là các chuỗi logic, mà ở đó mọi sự thay đổi đều phải tự giác và được kiểm soát bởi các tiêu chí về sự hợp lý. Vì lý do đó, chúng tôi đề xướng Lý thuyết Cải cách như một giải pháp để tìm lại tự do một cách hợp lý. Sự trở về của tự do cũng phải là một lộ trình được hoạch định tương xứng với những nhận thức của con người về tự do; nếu không, con người sẽ rơi vào trạng thái choáng ngợp trước những giá trị của tự do và sẽ sử dụng nó một cách liều lĩnh, hay đúng hơn, sẽ lại cống hiến tự do một cách thiếu chín chắn và đẩy mình vào những trạng thái không tự do khác.
Nhằm chứng minh cho luận điểm cải cách như là công nghệ phát triển duy nhất trong xã hội hiện đại, chúng ta sẽ cùng nhau phân tích trường hợp của Việt Nam với việc thực hiện chính sách Đổi Mới từ năm 1986 mà thực chất là một cuộc cải cách kinh tế.
Nền kinh tế thị trường mới vào Việt Nam khoảng hơn mười năm nhưng nó đã tạo ra sự đột biến vĩ đại trong tư duy của người Việt Nam. Đó là mỗi người đều cảm thấy bị thất thiệt nếu không có tự do và đó cũng chính là nguồn gốc của tất cả những thành tựu mà chúng ta đạt được kể từ năm 1986 đến nay. Cần phải khẳng định như vậy để bác bỏ cách tiếp cận sai lầm của một số người khi lên án nền kinh tế thị trường như là căn nguyên của sự suy thoái của một số giá trị, cụ thể là của tình trạng vi phạm pháp luật tràn lan và gần như không thể kiểm soát. Như đã phân tích trong phần trước, tình trạng vi phạm pháp luật có căn nguyên sâu xa là những nhận thức phiến diện của con người về những giá trị
của tự do chứ không phải là do kinh tế thị trường hay tự do kinh tế Chính vì thế, người ta không được phép hạn chế tự do kinh tế, kể cả nhằm mục đích khôi phục trật tự, bới trật tự trước đây ở Việt Nam là một thứ trật tự của tình trạng chậm phát triển còn sự nhôn nháo trong hiện tại là một sự nhốn nháo vĩ đại - nó chứa đựng trong đó những khát vọng tự do, những mưu cầu hạnh phúc, những tìm kiếm cơ hội của con ngườiViệt Nam và vì thế, nó chứa đựng những yếu tố phát triển. Pháp luật phải đảm bảo an toàn cho con người trong khi họ đổ ra đường để tìm kiêm cơ hội chứ không phải tước đi của họ sự tự do trong việc tìm kiếm và khai thác các cơ hội. Quan trọng hơn, pháp luật phải từng bước xây dựng và khẳng định tâm lý sở hữu trong người dân Việt Nam và hãy bắt đầu sứ mệnh này với việc thừa nhận tầm quan trọng của tích luỹ. Nếu tiếp cận vấn đề tích luỹ một cách thiếu hợp lý như hiện nay thì chúng ta sẽ có một tương lai không có tích luỹ, trong khi tích luỹ là tiền đề để phát triển.
Bản thân việc thay đổi cách tiếp cận đối với vấn đề tích lũy sẽ mở ra một chương mới trong nhận thức của con người Việt Nam về tự do kinh tế nói riêng và tự do nói chung và như thế nghĩa là chúng ta đang gieo những mầm phát triển trong cuộc sống hiện tại.
Tính biện chứng của quá trình cống hiến tự do
Các phân tích về tự do đã khẳng định rằng, xã hội được cấu thành từ sự tự nguyện nhượng bớt một phần tự do của các thành viên. Không ít người đặt câu hỏi về giá trị hay ý nghĩa của phần tự do còn lại: trong quan điểm của chúng tôi, phần tự do còn lại là phần Qự phòng cho sự phát triển của khái niệm tự do bội còn người luôn cần tự do để nhượng tiếp trong những chặng phát triển tiếp theo. Vì thế, có thể nói, quá trình phát triển của con người là quá trình nhượng thêm tự do hay nói cách khác, con người nhượng bớt tự do để mở rộng tự do hay không gian phát triển của chính mình. Đó chính là khía cạnh biện chứng quan trọng nhất của quá trình cống hiến tự do.
Nhưng phải chăng tự do là một đại lượng hữu hạn?Câu trả lời là không, vì con người góp tự do như góp vốn; nó sẽ tạo ra tài sản trước mắt và giá trị gia tăng trong tương lai. Giá trị gia tăng đó chính là quyền tự do phát triển. Như vậy, tự do không phải là một đối tượng tĩnh mà luôn luôn vận động; sự vận động đó, rõ ràng, đã mở rộng khái niệm tự do và tạo ra tự do với một chất lượng cao hơn.
Tuy nhiên, nếu con người nhận ra rằng phần tự do mà họ đóng góp đã bị đánh cắp, thì họ sẽ không còn tín nhiệm đối tượng nhận sự góp vốn của họ. Chính vì thế, họ sẽ từ chối góp phần tự do của mình và tìm cách giữ lại phần tự do càng lớn càng tốt. Đó chính là khuynh hướng tiêu cực của sự phát triển tự do, tức là con người không tin tưởng vào người đại diện hay nhà nước và tạo ra tình trạng vô chính phủ. Vô chính phủ là sự không thừa nhận các giá trị minh bạch của chính phủ và ở đâu, chính phủ càng xuất hiện như một công cụ cưỡng bức con người, thì ở đó mức độ vô chính phủ càng nghiêm trọng. Cần phải nhắc lại rằng, con người cần đến chính phủ như là đối tượng bảo vệ lợi ích, trong đó quan trọng nhất là bảo vệ quyền sở hữu của họ đối với pháp luật trên tư cách là tài sản tinh thần của nhân dân.
Nếu nhà nước, với tư cách là người quản trị nguồn vốn tự do của cộng đồng và xã hội, chiếm đoạt phần tự do mà các thành viên trong xã hội đóng góp thì sẽ tạo ra tình trạng độc tài; nói cách khác, bản chất của chế độ độc tài chính là sự chiếm đoạt các phần tự do được đóng góp bởi các thành viên trong xã hội. Những kẻ thiết lập và duy tự chế độ độc tài là những kẻ không hiểu tự do. Tự do là những giá trị có thật và mỗi người đều có đủ
lượng tự do cho mình. Bản thân sự chiếm đoạt tự do đã tự nó nói lên những hạn chế trong nhận thức về giá trị của tự do của những kẻ đi chiếm đoạt. Người biết sử dụng tự do là người biết khai thác tự do của mình và không phải chiếm đoạt của bất kỳ ai. Bi kịch của nhân loại là con người không hiểu giá trị của tự do và không có kinh nghiệm sử dụng tự do nên tưởng rằng mình cần nhiều hơn hoặc không cần đến nó. Những người tưởng rằng mình không cán tự do đã dâng hiến trọn vẹn tự do của mình và trở thành đối tượng bị trị, còn những người tưởng mình cần nhiều tự do hơn thì chiếm đoạt tự do của kẻ khác và trở thành kẻ cai trị, kẻ phá hoại đời sống xã hội. Thật ra, không chỉ những kẻ chiếm đoạt tự do của người khác mới có tội, mà ngay cả những người để cho người khác chiếm đoạt tự do của mình cũng là những kẻ có tội bởi không ý thức được về thứ đã sinh ra mình. Đó cũng chính là khuyết tật nghiêm trọng nhất về nhận thức của con người và là cơ sở tồn tại hợp pháp của các nhà nước rút; dân chủ như đã phân tích trong phần trước.
Tự do tinh thần – trạng thái phát triển cao nhất của tự do
Các phân tích về tự do dưa chúng ta đến kết luận tự do là tài sản thiêng liêng nhất đối với mỗi con người và vì thế, chúng ta không được nhuyễn nhượng và cống hiến tự do một cách ngẫu hứng. Tuy nhiên, một trong những khía cạnh tinh tế nhất của khái niệm tự do và đồng thời cũng là đối tượng dễ bị xâm phạm và chiếm đoạt nhất là tự do tinh thần. Trước khi đi vào những phân tích sâu hơn, chúng ta hãy cùng nhau đưa ra định nghĩa tự do tinh thần. Chúng tôi cho rằng, tự do tinh thần là trạng thái con người không bị lệ thuộc về mặt nhận thức vào bất kỳ ai, cho dù người đó có vĩ đại đến đâu đi chăng nữa, bởi sự vĩ đại của một cá nhân không thể thay thế cho sự vĩ đại của một dân tộc và càng không thể thay thế tự do tinh thần.
Giải thích tình trạng chậm phát triển của một số quốc gia trên thế giới, trong một số bài viết, chúng tôi đã phân tích trạng thái không thể ra khỏi quá khứ của những quốc gia này. Nhưng, sự không thể ra khỏi quá khứ, xét về bản chất, phải chăng là trạng thái bị đánh cắp tự do tinh thần hay trạng thái tự nguyện cống hiến trọn vẹn tự do tinh thần cho quá khứ? Xin được nhấn mạnh rằng tự do là cảm hứng phát triển quan trọng nhất và tự do tinh thần là điều kiện không thể thiếu để phát triển về mặt nhận thức. Con người không thể trưởng thành nếu không thoát rà khỏi cái bóng của những cá nhân vĩ đại. Một dân tộc càng không thể phát triển nếu không có cảm hứng phát triển trong hiện tại, tức là không có tự do tinh thần trong hiện tại.
Thực ra, ngay cả tình trạng giáo điều về mặt nhận thức hay sự khủng hoảng lý thuyết phát triển cũng bắt nguồn từ sự không có tự do tinh thần, hay nói đúng hơn là từ sự không có tự do nhận thức. Tại sao con người lại tự trói buộc mình vào những thứ chưa hẳn đã là chân lý mà quên mất rằng ngay cả chân lý cũng là một đối tượng của triết học; nó cũng vận động, thay đổi để tự làm mới mình và làm đúng mình? Cần phải khẳng định rằng sự tôn sùng và phổ biến những chân lý lạc hậu đã tiêu diệt cảm hứng tư duy của con người trong hiện tại. Một triết gia từng nói “Tôi tư duy tức là tôi tồn tại". Vậy phải chăng, con người đã chết nếu không còn cảm hứng tư duy?
Vì tất cả những lý do đó, chúng tôi cho rằng tự do tinh thần là hình thức phát triển cao nhất của tự do mà nếu không có nó, các dân tộc sẽ bị thoái hóa về mặt tinh thần và không thể phát triển.
Lời kết
Sẽ là thừa nếu nói thêm bất kể lời nào về những giá trị của tự do bởi tự do là chính nó, tự do sinh ra con người, tự do khiến con người sáng tạo ra mình và tự do mang lại sự thức tỉnh vĩ đại cho các dân tộc. Chúng tôi tin tưởng rằng tự do sẽ đến với con người khắp nơi trên thế giới, thậm chí cả những nhà nước hiện còn trong tình trạng thiếu hoặc không có tự do.
Nội dung khác
Tìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuHoài cổ là đi tìm vẻ đẹp trót bỏ quên
08/06/2019Linh HanyiNếu lãng quên lịch sử
13/02/2014Nguyên CẩnTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpTương lai trong lòng quá khứ
06/02/2009Nguyễn Quân