Để hệ giá trị của giai cấp công nhân Việt Nam trở thành một hệ thống giá trị xã hội
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một cách khái quát hệ giá trị của giai cấp công nhân biểu hiện trên một số khía cạnh cơ bản: lao động, công bằng, bình đẳng, sự phát triển tự do và toàn diện, phân tích những tiền đề, điều kiện cần thiết cho sự hình thành và phát triển hệ giá trị của giai cấp công nhân. Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề đang đặt ra trong quá trình xác lập và phát triển hệ giá trị giai cấp công nhân ở Việt Nam, tác giả đã luận chứng những yêu cầu về mặt nhận thức và mặt hành động nhằm khẳng đinh và phát huy hệ giá trị của giai cấp công nhân Việt Nam đưa hệ giá trị đó trở thành một hệ giá trị xã hội.
Vài nét về hệ giá trị của giai cấp công nhân
Trong đời sống hiện thực, cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất công nghiệp và sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những giá trị hiện tồn của nhân loại đã và đang xuất hiện một hệ giá trị mới của giai cấp công nhân. Với tư cách một hệ thống những phẩm chất, phẩm giá, quan niệm về chuẩn mực xã hội của một cộng đồng người, hệ giá trị của giai cấp công nhân có những biểu hiện cơ bản sau:
Thứ nhất, lao động - giai cấp công nhân xác định sự tồn tại của mình bằng lao động theo phương thức công nghiệp với những đặc trưng: sản xuất bằng máy móc, năng suất cao, mang tính xã hội hóa, tự giác và sáng tạo trên cơ sở của tri thức hiện đại và kỹ năng ngày càng hoàn thiện...Giá trị này vừa phản ánh quá trình giải phóng con người thoát khỏi "tính chất cực nhọc cổ truyền của lao động", vừa là tiền đề để nhân loại thoát khỏi tình trạng bóc lột lao động và "lao động bị tha hóa" mà các phương thức sản xuất trước đây đã tạo ra.
Thứ hai, công bằng - với việc xác lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, giai cấp công nhân đã và đang từng bước hiện thực hóa một lý tưởng của nhân loại trên lĩnh vực cơ bản nhất: công bằng trong phân phối thành quả lao động.
Thứ ba, sự bình đẳng giữa các công dân và giữa các dân tộc. Giá trị này được hiện thực hóa thông qua việc xác lập và không ngừng hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Thứ tư, "sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do và toàn diện của mọi người", con người "được phát triển mọi năng lực bản chất người" và biết tôn trọng những chuẩn mực đạo đức xã hội, như sống có lý tưởng, nhân ái, vị tha... và dần vươn lên làm chủ xã hội, làm chủ bản thân và làm chủ tự nhiên.
Thứ năm, quan hệ hòa bình, hữu nghị giữa các quốc gia - dân tộc.Gọi là hệ giá trị của giai cấp công nhân vì tính riêng của nó, nhưng nó không hề biệt phái. Hệ giá trị này vừa tiếp nối vừa phân biệt với những "giá trị cổ truyền". Nó tiếp nối, phát triển những lý tưởng và cũng là những giá trị vĩnh hằng của nhân loại, như lao động, công bằng, tự do, hòa bình và hữu nghị… Hệ giá trị này phân biệt với hệ giá trị tư sản, bởi nó đối lập với chế độ bóc lột lao động và phê phán quan niệm coi xã hội có đẳng cấp, bất bình đẳng là lẽ tự nhiên, nó đối lập với lẽ sống thực dụng tư sản, với "lối tính toán vị kỷ, trả tiền ngay, không tình không nghĩa"… Sự khác biệt về nguyên tắc giữa hai hệ giá trị của tư bản và lao động là có thực và được khẳng định bằng cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực văn hóa, xã hội.
Những tiền đề, điều kiện cho sự hình thành hệ giá trị của giai cấp công nhân có thể được phân thành hai nhóm. Nhóm tiền đề thứ nhất là sự xuất hiện của phương thức sản xuất công nghiệp mang tính tất yếu khách quan, tạo cơ sở cho việc định hình những giá trị của giai cấp công nhân. Chính sản xuất lớn và những yêu cầu đặc thù của nó đã tạo cơ sở kinh tế - kỹ thuật cho tác phong lao động, lối sống và rộng hơn, cho những giá trị xã hội mới. Lao động có kỹ thuật bằng công cụ máy móc với năng suất cao, sản xuất mang tính xã hội, tính kỷ luật, tự giác và tinh thần hợp tác... là những tiền đề vật chất để xác lập và định hình hệ giá trị của giai cấp công nhân.
Nhóm tiền đề thứ hai góp phần quy định hệ giá trị này, đó là chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Nhóm này thể hiện tính chủ động, tự giác của "giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp thống trị" trong quá trình xác lập hệ giá trị mới cho toàn xã hội. Hơn nữa, chế độ xã hội đó cũng là tiền.đề cơ bản nhất cho việc xác lập hệ giá trị mới. Từ khi chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ra đời, bằng việc thiết lập cơ sở kinh tế (quá trình xác lập, hoàn thiện sở hữu công hữu với tư cách quan hệ sở hữu chủ đạo và phương thức phân phối theo lao động bằng chế độ chính trị (pháp luật và các thể chế chính trị - xã hội...) và bằng cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa giữa hai hệ giá trị của giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, hệ giá trị của giai cấp công nhân dần được khẳng định trong đời sống hiện thực. Cần phải thấy rằng, cuộc đấu tranh để khẳng định hệ giá trị của giai cấp công nhân chống lại những phản giá trị hoặc sự tái lập của những tư tưởng, lối sống phi vô sản... đã và đang diễn ra gay go, quyết liệt, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, nhìn một cách khái quát, hệ giá trị của giai cấp công nhân là một chất lượng mới của quan hệ giữa người với người, được hình thành bởi quy định khách quan của tồn tại xã hội hiện đại và cũng là thành quả của những nỗ lực chủ quan, tự giác của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong quá trình sáng tạo xã hội mới. Xác lập hệ giá trị của giai cấp công nhân là một quá trình lâu dài và cần phải có cả những tiền đề khách quan lẫn các điều kiện chủ quan. Tiền đề kinh tế - kỹ thuật cho dù rất quan trọng, nhưng một mình nó chưa thể quyết định việc xác lập và phát huy hệ giá trị của giai cấp công nhân. Chế độ xã hội có tác động mạnh mẽ và ở khâu hiện thực hóa, nó có vai trò quyết định tới mức độ và tiến trình xác lập hệ giá trị mới.
Ở Việt Nam, hệ giá trị của giai cấp công nhân đã từng bước được xác lập trên thực tế Độc lập, tự do của dân tộc, chế độ xã hội chủ nghĩa và quá trình công nghiệp hóa… là những tiền đề cơ bản cho việc hình thành hệ giá trị của giai cấp công nhân. Hệ giá trị mới đã nhanh chóng tiếp hợp với những giá trị truyền thống của dân tộc và bước đầu đã phát huy vai trò cũng như sức hấp dẫn của nó trong quá trình công nghiệp hóa ở miền Bắc giai đoạn từ 1954 - 1975. Chế độ xã hội chủ nghĩa và quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đã tạo cơ sở, tiền đề cho sự xác lập hệ giá trị mới. Nhiều giá trị của giai cấp công nhân, như lao động, sáng tạo, kỷ luật, vị tha, tinh thần cộng đồng, tình đoàn kết giai cấp đã xuất hiện trên thực tế cùng với những biểu tượng văn hoá đầy sức thuyết phục, lối sống và tác phong của công nhân đã lan tỏa trong xã hội, công nhân trở thành một nghề có sức hấp dẫn lớn trong xã hội.
Nhưng, thực tế gần đây cũng cho thấy một vấn đề có tính quy luật: quá trình xác lập hệ giá trị của giai cấp công nhân ở nước ta không hề dễ dàng và đơn tuyến, nhất là trong bối cảnh mới hiện nay.
Một số vấn đề đang đặt ra trong quá trình xác lập và phát triển hệ giá trị giai cấp công nhân từ thực tiễn Việt Nam hiện nay
Hệ giá trị của giai cấp công nhân nước ta không tồn tại độc lập và tự nó, mà gắn liền với mô hình, mục tiêu và bối cảnh của xã hội. Bối cảnh hiện nay của nước ta đã có những thay đổi đáng kể so với thời kỳ trước đổi mới, trong đó đặc điểm nổi bật là chúng ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ hành chính - kế hoạch hoá bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh và cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một cơ sở mới cho việc xác lập giá trị của giai cấp công nhân đã hình thành mà theo đó, có sự sắp xếp lại về thứ tự ưu tiên trong thang bậc giá trị. Năng suất, chất lượng và hiệu quả, sản xuất phải hướng về những nhu cầu của thị trường và lấy đó làm căn cứ quan trọng nhất, lợi ích chính đáng của người lao động được quan tâm và có sự kết hợp hài hòa với lợi ích của tập thể và xã hội… Nét mới trong bối cảnh của nước ta hiện nay còn là việc xã hội thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Theo đó, vị thế của nhiều giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội cũng khác trước. Bên cạnh hệ giá trị của giai cấp công nhân, đã xuất hiện nhiều hệ giá trị xã hội khác tương đối đa dạng. Đây cũng có thể xem là lẽ tự nhiên của cơ cấu xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề là ở chỗ, bối cảnh trên đang có những tác động như thế nào và đặt ra vấn đề gì với quá trình xác lập hệ giá trị của giai cấp công nhân?
Tác động thứ nhấtmang tính tích cực, hỗ trợ cho việc xác lập hệ giá trị mới. Đó là chế độ xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức, là sự nghiệp xây dựng một "xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,văn minh", "con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện"... Những tiền đề và mục tiêu đó tạo ra những xu hướng khẳng định hệ giá trị của giai cấp công nhân.
Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước, nguyên tắc phân phối theo lao động, đảm bảo lợi ích chính đáng của người lao động, tôn vinh người lao động và thành quả lao động... đang là những nguyên tắc của hiện thực. Nhu cầu của thị trường sức lao động trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng đòi hỏi nhiều ở nguồn lực con người, nhất là lao động có trình độ cao. Công nhân cũng trở nên năng động hơn trong kinh tế thị trường, vị thế giữa công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước và công nhân trong thành phần kinh tế tư nhân không còn cách biệt nhiều... Có thể xem đây là những tác động xã hội trực tiếp và thuận chiều với quá trình xác lập hệ giá trị của giai cấp công nhân.
Tác động thứ hai. Trên bình diện quốc tế, cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực và cùng với đó là những sự xuyên tạc phủ nhận sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân đã tác động bất lợi đối với quá trình xác lập hệ giá trị của giai cấp công nhân. ở nước ta, trên thực tế, cũng đã xuất hiện một nhóm các yếu tố, tuy không hoàn toàn là tiêu cực, song hiện nay, trong giai đoạn đầu của quá trinh xây dựng cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế của thị trường sức lao động, trạng thái còn bất cập về nhiều mặt của nguồn lực lao động công nghiệp và khả năng tổ chức, định hướng các hệ giá trị xã hội còn nhiều hạn chế… thì các yếu tố này đang bộc lộ nhiều hiệu ứng không mong đợi:
Cơ chế kinh tế nhiều thành phần mặc nhiên thừa nhận sự tồn tại của nhiều hệ giá trị khác nhau, chẳng hạn, hệ giá trị của các nhóm xã hội doanh nhân, trí thức - công chức, lãnh đạo - quản lý và cả của giai cấp nông dân cùng nhiều nhóm xã hội khác... Mỗi hệ giá trị tiêu biểu cho từng nhóm xã hội hoặc nghề nghiệp có những đặc thù và xu hướng vận động phân biệt với những giá trị của giai cấp công nhân. Cũng cần phải thấy rằng, một số "mẫu số chung' đang được xác lập trong hệ giá trị xã hội, chẳng hạn, lao động có năng suất, thừa nhận tính chất xã hội hóa, tính nhân bản của lao động. Tuy nhiên, trên thực tế, hiện đang có sự cạnh tranh giữa các hệ giá trị trong xã hội. Trong cuộc cạnh tranh này, một vài hệ giá trị khác, với những biểu hiện "hào nhoáng' của nó đang tỏ ra có một sự lấn lướt nhất định. Điều đáng quan tâm là, những biểu hiện này lại không hoàn toàn tiêu biểu cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta. Chính từ phương diện này, cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai hệ giá trị "tư bản và lao động” lại một lần nữa được đặt ra trong bối cảnh mới với nội dung, biểu hiện mới.
Thị trường sức lao động nước ta còn ở trạng thái chưa hoàn thiện cũng đang tác động khá mạnh mẽ. Tính "hoang dã" của thị trường này là khá rõ. Cuộc cạnh tranh diễn ra khá gay gắt và ưu thế đang thuộc về người có nhu cầu sử dụng lao động. Công nhân - người bán hàng hoá sức lao động lại thường là người bị "ép giá" và bản thân họ cũng đang cạnh tranh khá quyết liệt với nhau: lao động ở địa phương và lao động ngoại tỉnh, người có tay nghề và người chưa có nghề… Cái khát vọng về việc làm, đời sống đôi lúc đã làm cho quan niệm về giá trị của giai cấp công nhân dường như còn bị ẩn khuất đâu đó.
Hai nhu cầu lao động trình độ cao và lao động phổ thông đều là những đòi hỏi khách quan của thực tiễn. Song, có một điều gì đó đang diễn ra trong một vài phương tiện thông tin đại chúng khiến người ta có thể ngộ nhận rằng, những nhu cầu về các nhóm nhân lực quản lý, dịch vụ... đang bức xúc đến độ dường như trở thành mối quan tâm chính của xã hội. Còn các nhu cầu khác về nhóm nhân lực trực tiếp sản xuất công nghiệp (mà bản thân nó cũng bao hàm cả lao động trình độ cao và lao động kỹ thuật) thì bị cho là chỉ ở hàng "thứ hai". Chính ngộ nhận đó đã góp phần quan trọng làm cho một bộ phận dân cư của xã hội rơi vào trạng thái lệch lạc, ảo tưởng xã hội về hệ giá trị.
Khả năng tổ chức và định hướng hệ giá trị giai cấp công nhân trong xã hội cũng còn nhiều hạn chế. Với vị thế là giai cấp trung tâm của xã hội mới, nhiều giá trị, lối sống của giai cấp công nhân trước đây đã được khẳng định và tôn vinh. Điều đó là hoàn toàn xứng đáng và cần được tiếp tục phát huy. Song, trong khoảng một thập niên gần đây, vấn đề đáng quan tâm là có nhiều dấu hiệu cho thấy hệ giá trị của giai cấp công nhân đang bị tác động tiêu cực của xã hội và của nền kinh tế thị trường xâm hại.
Ở phương diện xã hội, quan niệm chưa đầy đủ về thang giá trị, cách ứng xử còn nhiều thiếu sót với người lao động, sự kích hoạt tâm lý xã hội từ các phương tiện thông tin đại chúng về một nền "kinh tế tri thức" nào đó dường như tách rời sản xuất công nghiệp... đang làm méo mó nhận thức về nghề công nhân và đang làm nhạt dần hình ảnh người công nhân. Đây là những tác nhân chủ yếu đang gây nhiều ngộ nhận, lầm lẫn, thậm chí có cả hiện tượng đánh tráo giá trị. Đây đó, trên những lễ đài danh dự của các sinh hoạt chính trị - xã hội lớn, trong những thống kê riêng rẽ nói về những ngành nghề của tương lai, hay ngay cả trong những quảng cáo… hình ảnh công nhân vắng dần. Lựa chọn nghề của lớp trẻ cũng ít thấy hướng về các trường dạy nghề công nhân. Mỗi năm xã hội xuất hiện nhu cầu từ 1,2 đến 1,5 triệu chỗ làm việc mới, đều đặn mỗi năm các Trường Đại học và cao đẳng thu hút được khoảng 20% số nhân lực đó - tạm có thể coi là tinh hoa của nhóm nhân lực trẻ. Số còn lại sẽ tự "bươn chải" theo hai hướng chính: trở về làng quê hoặc vào thành phố kiếm việc làm. Chắc chắn vẫn còn nhiều người tài giỏi trong số đó, song không phải là nhiều. Công nghiệp Việt Nam hàng năm vẫn tăng nguồn nhân lực cho mình chủ yếu từ nguồn này. Rõ ràng, xã hội chưa có quan điểm đúng về hệ giá trị công nhân và chưa cung cấp nhân liệu tất nhất cho giai cấp công nhân.
Bản thân đời sống của đa số công nhân còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều quyền lợi chính đáng: việc làm, nhà ở, những nhu cầu của đời sống tinh thần công nhân chưa được quan tâm chu đáo. Lợi ích chính đáng của một bộ phận công nhân trong những quan hệ xã hội phức tạp, đa dạng của thị trường sức lao động chưa được bảo vệ... Thực tế ấy đã tạo ra ấn tượng nghề công nhân bị suy giảm trong thang bậc giá trị của xã hội.
Bản thân chủ thể của hệ giá trị giai cấp công nhân cũng đang xuất hiện nhiều vấn đề Không ít bất cập, bỡ ngỡ trong bối cảnh mới và cũng không ít những hạn chế, lệch lạc đang xuất hiện và chi phối chính giai cấp công nhân. Quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, những tác động nhiều chiều và không phải lúc nào cũng thuận lợi của cơ chế thị trường, những khó khăn bước đầu của cung cách làm ăn mới và nhất là yêu cầu to lớn của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá... đôi lúc làm cho một bộ phận công nhân và một số tổ chức chính trị - xã hội của công nhân cảm thấy lúng túng…
Tinh thần thực tế và xu hướng thực dụng đang cùng xuất hiện và làm thành mâu thuẫn chi phối quan niệm về giá trị xã hội của nhiều công nhân. Công nhân bắt đầu có ý thức về "giá trị" của bản thân thông qua quan hệ lao động. Quan tâm đến lợi ích, nhu cầu thiết thân là một nét mới đang từng bước trở thành phổ biến trong quan niệm của công nhân. Tuy nhiên, thị trường sức lao động cũng đang làm cho một bộ phận công nhân trở nên thực dụng nhiều hơn.
Những biểu hiện ấy có thể được xem là bình thường trong bối cảnh kinh tế thị trường, song điều cần quan tâm là ở chỗ, công nhân nước ta không chỉ là những người lao động, mà còn là giai cấp đang đảm nhận sứ mệnh lịch sử trước toàn dân tộc. Nếu chỉ dừng lại ở quan niệm của những người bán sức lao động và tính toán làm sao bán được "đúng giá"... thì họ sẽ lùi trở về giai đoạn tự phát với chủ nghĩa công liên, chủ nghĩa kinh tế đơn thuần và từ bỏ địa vị chính trị của một giai cấp tiên phong, lãnh đạo. Từ bỏ địa vị này, công nhân cũng từ bỏ một điều kiện rất căn bản để xác lập vị thế chủ nhân trong những thương thuyết với người sử dụng lao động. Thực tế đang nhắc nhở những người ham mê chủ nghĩa kinh tế điều ấy: cuộc đình công của hàng vạn lao động có thể tạo nên sức ép xã hội khá lớn, nhưng nó không thể có được một thành quả căn bản và vững chắc nếu như không có sự hỗ trợ của Nhà nước và của Nghị định 03/2006/NĐ-CP...
Những vấn đề trên đang chỉ báo hai điều: thứ nhất, sự suy giảm vai trò chủ đạo của hệ giá trị của giai cấp công nhân ở nước ta hiện nay là một thực tế, thứ hai, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức và sự nghiệp phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay đặt ra nhu cầu khách quan là cần phải khẳng định địa vị chủ đạo của hệ giá trị của giai cấp công nhân trong một xã hội thống nhất trong đa dạng.
Giải pháp cơ bản để khẳng định và phát huy hệ giá trị của giai cấp công nhân trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Về mặt nhận thức, cần tiếp tục khắc sâu trong nhận thức xã hội rằng, giai cấp công nhân là sản phẩm của quá trình công nghiệp hóa và chính từ thực tiễn này mà những tiền đề vật chất của một hệ giá trị mới được xác lập. Vì vậy, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với kinh tế tri thức và phát triển giai cấp công nhân là "tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết” cho việc xác lập và phát triển hệ giá trị của giai cấp công nhân nước ta. Mặt khác, những giá trị cơ bản của giai cấp công nhân là mẫu số chung cho nhiều giá tri lớn của nhân loại hiện nay và trong tương lai. Không có sự phát triển và hoàn thiện hệ giá trị của mình, giai cấp công nhân Việt Nam không thể thành công trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cũng không thể có cơ sở xã hội cho mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn hôm nay của Việt Nam đang chứng minh cho tư tưởng của C.Mác về mối quan biện chứng giữa công nghiệp - công nhân và chủ nghĩa xã hội. Theo đó, cần xem việc phát triển giai cấp công nhân và hệ giá trị của nó trong xã hội là những nội dung quan trọng của quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong cuộc chiến đấu tiêu diệt nghèo nàn, lạc hậu, bất công và tình trạng chậm phát triển, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, chúng ta biết chịu đựng và dám hi sinh nhưng không phải là vô điều kiện. Chúng ta không được để mất đi cơ sở xã hội quan trọng nhất của quá trình phát triển lên một xã hội văn minh là giai cấp công nhân. Sự suy giảm vai trò của hệ giá trị của giai cấp công nhân hiện nay đang tác động xấu tới quá trình trên và ảnh hưởng tiêu cực đến việc tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Giai cấp công nhân cần phải trở thành chủ thể xã hội quan trọng nhất, lực lượng đi đầu trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì họ tạo ra cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội và tạo ra năng suất lao động xã hội cao hơn cho toàn bộ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và gắn với kinh tế tri thức.
Về mặt hành động. Sự hình thành hệ giá trị mới là hành động tự giác được xây dựng trên cơ sở nhận thức tính quy luật của nó. Để hệ giá trị cua giai cấp công nhân tỏa sáng thì không chỉ bằng những tiền đề kinh tế - kỹ thuật, như quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển giai cấp công nhân về số lượng chất lượng và tổ chức, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội... mà còn bằng những tác động của thể chế chính trị, bao gồm định hướng giá trị xã hội, bảo vệ và tôn vinh những giá trị của giai cấp công nhân.
Về định hướng giá trị xã hội, cùng với những hệ giá trị xã hội khác, hệ giá trị của giai cấp công nhân cần có được những điều kiện như nhau để phát huy bản chất. Một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là xã hội trong đó lao động và phân phối theo lao động phải là nguyên tắc chủ đạo và được hiện thực hóa. Giai cấp công nhân đang góp phần cơ bản trong việc tạo ra 60% GDP cho đất nước, công nghiệp đang đóng góp 70% nguồn thu ngân sách của nhà nước... Đó là những giá trị thực không thể phủ nhận. Những chuẩn mực về lối sống, tác phong của công nhân: lao động, bình đẳng, liên kết xã hội… cũng đang là mẫu số chung của xã hội hiện đại - những giá trị ấy cần được tiếp tục nêu cao và tỏa sáng.
Những lệch lạc xã hội cũng cần phải được điều chỉnh. Không thể để một giai cấp được coi là trung tâm của xã hội mà vẫn có một bộ phận lớn còn gặp nhiều khó khăn trong đời sống và việc làm, tỉ lệ công nhân được đào tạo nghề quá thấp (gần 25%) như hiện nay. Cần phải xoá bỏ hiện tượng lũng đoạn của những phản giá trị, như làm giàu bằng các thủ đoạn phi pháp: tham nhũng, hối lộ, làm ăn kiểu chụp giựt... và sự nhiễu nhương của lối sống ích kỷ, thực dụng của chủ nghĩa cá nhân. Chính những phản giá trị ấy đang chiếm mất chỗ lẽ ra phải dành cho các chân giá trị xã hội.
Bản thân giai cấp công nhân - chủ thể của hệ giá trị mới cũng cần tự ý thức và được học tập, nâng cao giá trị tự thân. Nâng cao trình độ văn hóa, tay nghề và giác ngộ chính trị cho công nhân cũng cần thiết như giải quyết việc làm và nâng cao đời sống. Hơn nữa, đó không chỉ là điều kiện để vận hành công nghệ hiện đại, mà còn là cơ sở thuận lợi để phát triển hệ giá trị của một giai cấp "đưa ra được và thực hiện được một kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản".
Định hướng cuộc đấu tranh của những người lao động, tổ chức, giác ngộ họ trong cuộc đấu tranh vì cả lợi ích trước mắt lẫn lợi ích lâu dài là trách nhiệm, đồng thời là nội dung quan trọng trong quá trình đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội trong công nhân. Đó cũng là quá trình tích cực để xác lập hệ giá trị của giai cấp công nhân nước ta hiện nay.
Định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa cần chú trọng làm cho hệ tư tưởng của giai cấp công nhân ngày càng "trở thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội". Cần lường trước để có biện pháp ngăn chặn hiệu quả những lối sống xa lạ với bản chất của giai cấp công nhân và truyền thống dân tộc, khi mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Xã hội tiêu thụ, chủ nghĩa cá nhân, tâm lý thực dụng, lối sống ích kỷ và phi lý tưởng... là những dấu hiệu của sự "xâm lăng văn hóa" và ảnh hưởng tới một bộ phận không nhỏ trong xã hội.
Bảo vệ và tôn vinh những giá trị của giai cấp công nhân là một yêu cầu cấp bách trong xã hội ta hiện nay. Điều đó cần được chuyển hóa thành hành động thực tế. chăm lo đời sống và việc làm của công nhân, làm cho nghề công nhân không những được xã hội trân trọng, mà còn trở thành nguyện vọng của nhiều thế hệ lao động, vì nó giúp cho người ta có thể sống tốt, sống đẹp và phát huy những năng lực sáng tạo của mỗi con người.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan Đăng