Bàn thêm về cấu trúc của tri thức khoa học
Tri thức là lĩnh vực rất rộng, có thể xem xét ở nhiều cấp độ, khía cạnh khác nhau. Tri thức có thể là tri thức đời thường (còn gọi là tri thức tiền khoa học, tri thức kinh nghiệm đời thường hoặc có sách viết là tri thức thường nghiệm), tri thức nghệ thuật và tri thức khoa học (kình nghiệm và lý luận). Như đã biết, tri thức nghệ thuật là phương thức đặc thù nhằm nắm bắt hiện thực về mặt thẩm mỹ.Tri thức đời thường dựa trên lẽ phải và ý thức thông thường, nó là cơ sở định hướng quan trọng cho các hành vi hàng ngày của con người. Hình thức này của tri thức phát triển phong phú thêm cùng với sự tiến bộ của tri thức khoa học. Xét về nguồn gốc phát sinh và phương thức hoạt động, tri thức là một hiện tượng xã hội.
Hầu hết các nhà khoa học đều thừa nhận tri thức khoa học bao gồm trithức: kinh nghiệm và tri thứclý luận.Trong đó tri thức kinh nghiệmlà trình độ thấp,còn tri thức lý luậnlà trình độ caocủa tri thức khoa học. Giữa hai trình độ này các tri thức khoa học có mối quan hệ mật thiết với nhau, làm tiền đề, cơ sở cho nhau cùng phát triển, phản ánh ngày càng gần đúng hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn về thế giới vật chất đang vận động không ngừng.
Dưới đây, chúng ta sẽ phân tích tương quan giữa hai cấp độ này của tri thức khoa học.
Tri thứckinh nghiệmchủ yếu thu nhận được thông qua quan sát và thí nghiệm. Nó nảy sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn, từ lao động sản xuất đến đấu tranh xã hội hoặc từ thí nghiệm khoa học. Xét một cách toàn diện và đầy đủ hơn, tri thức kinh nghiệm lại được chia làm hai loại.
Thứ nhất,là loại tri thức kinh nghiệm thông thường,còn gọi là tri thức tiền khoa học,tri thức thường nghiệm. Tri thức kinh nghiệm thông thường, chủ yếu thu nhận được từ những quan sát hàng ngày trong cuộc sống. Loại tri thức này phản ánh trực tiếp vẻ bề ngoài và mang đậm màu sắc cảm tính nhưng không đồng nhất với nó. Đương nhiên, tri thức ở cấp độ này hình thành từ nhận thức giản đơn, từ sự tác động một cách trực tiếp của sự vật lên các cơ quan cảm giác, từ những "lẽ phải thông thường", và là trình độ thấp mà người ít học vấn vẫn có thể có được.
Thứ hai,là loại trithất kinh nghiệm khoa học,thu nhập từ những thí nghiệm khoa học, từ sự khái quát các thực nghiệm khoa học.
Trong sự phát triển của xã hội, hai loại tri thức này có sự xâm nhập, bổ sung lẫn nhau, giả định và chuyển hóa nhau,làm phong phú hơn quá trình nhận thức thế giới. Loại tri thức kinh nghiệm được hình thành thông qua so sánh, đối chiếu và được kiểm nghiệm qua thực tiễn đã chứa đựng nhiều yếu tố khoa học, giúp con người nhận thức và cải tạo thực tiễn, gọi là tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm khoa học đúng như Ph.Ăngghen chỉ ra, có tác dụng: "chọn lọc lại những giả thuyết...gạt bỏ những giả thuyết này, sửa đổi những giả thuyết khác cho đến lúc cuối cùng, quy luật được xác định dưới hình thức thuần khiết" (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1978 - 1995, tập 20, tr.733). Tri thức kinh nghiệm là những hiểu biết được tích lũy từ cuộc sống hàng ngày. Trí thức kinh nghiệm đã giúp cho con người có được những hình dung thực tế về các sự vật, hiện tượng, biết cách ứng xử trước các hiện tương tự nhiên và trong các quan hệ xã hội. Theo thời gian và bằng kinh nghiệm sống, số lượng và chất lượng tri thức kinh nghiệm ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, chứa đựng những mặt đúng đắn, nhưng còn riêng biệt, chưa thể đi sâu vào bản chất các sự vật và do vậy, "tri thức kinh nghiệm chỉ giúp cho con người phát triển đến một khuôn khổ nhất định" (Vũ Cao Đàm, 2002, tr. 13).
Tri thức kinh nghiệm (ở cả hai cấp độ nói trên), có vai trò quan trọng không thể thiếu được trong đời sống hàng ngày, cũng như trong mọi hoạt động xã hội khác để xây dựng cuộc sống con người. Chính kinh nghiệm là cơ sở để kiểm tra lý luận, sửa đổi và bổ sung lý luận đã có, là luận cứ đanh thép để tổng kết, khái quát và hình thành nên lý luận mới. Song cũng cần nhận thấy rằng, dù có vai trò rất quan trọng nhưng tri thức kinh nghiệm mới chỉ nhận thức được những lớp thuộc tính bềmặt,chưacó khả năng đi sâu vào khám phá được nhữngmôi liênhệ phức tạpbên trong của sự vật. Tri thức kinh nghiệm mới chỉ là những hiểu biết về những mặt riêng rẽ, rời rạc về các mối liên hệ bên ngoài của đối tượng. Vì thế, dù đã mang tính trừu tượng và khái khát nhất định nhưng tri thức kinh nghiệm mới chỉ là bước đầu và còn nhiều hạn chế.
Nói tómlại, tri thức kinh nghiệm là sự phản ánh cái hiện tượng, cái đơn nhất, cái cụ thể, cái trực tiếp, bề ngoài của sự vật. Nó mới chỉ là một hình thức, một trình độ của nhận thức, nên chưa thể nắm bắt được một cách đầy đủ, toàn diện cái tất yếu, cái bản chất sâu sắc, cũng như các mối liên hệ bên trong của sự vật, hiện tượng. Ph.Ăngghen nhận xét trong Biện chứng của tự nhiên: "Sự quan sát
Để nắm bắt được bản chất sự vật thì nhận thức của con người tất yếu phải chuyển lên trình độ tri thứclý luận.Đây là một trình độ cao hơn về chất so với tri thức kinh nghiệm. Tri thức lý luận được khái quát từ tri thức kinh nghiệm. Nó tồn tại trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật, giả thuyết, lý thuyết, học thuyết nào đó. Lý luận hình thành từ kinh nghiệm nhưng nó không xuất hiện một cách trực tiếp, tự phát và không phải mọi lý luận đều xuất phát trực tiếp từ kinh nghiệm.
Trì thức lý luận ở vào trình độ cao nhất của tri thức khoa học, là sản phẩm của tư duy bậc cao. Cố nhiên nó phải là kết quả của quá trình nghiên cứu, học tập nghiêm túc, bền bỉ, có hệ thống của con người. Một sự nghiên cứu cẩu thả, hời hợt, không chịu đào sâu, thiếu kiên trì, không chuyên tâm, chắc chắn không thể đem lại hiểu biết ở trình độ tri thức lý luận được. Nó là sự phản ánh gián tiếp, trừu tượng, khái quát khách thể nhưng là sự phản ánh sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, chính xác hơn tri thức kình nghiệm. Tri thức lý luận mang lại những hiểu biết có tính bản chất, bên trong, vạch ra những mối liên hệ tất nhiên, và tính quy luật của đối tượng. Một sự hiểu biết như vậy, sẽ cho phép con người tiến gần sát đến chân lý về sự vật. Như C.Mác chỉ ra, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là: "đem quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự" (Bộ Giáo dục và đào tạo, 1993, tập 3, tr. 65). Tri thức lý luận chính là sự khái quát từ tri thức kinh nghiệm, là một trình độ cao hơn về chất so với tri thức kinh nghiệm. Tri thức lý luận dù được hình thành từ tri thức kinh nghiệm nhưng không phải hình thành một cách tự phát và không phải tri thức lý luận nào cũng hình thành từ kinh nghiệm. Nhờ tính độc lập tương đối này mà có lúc lý luận có thể đi trước các dữ liệu kinh nghiệm. Tri thức lý luận là sự biểu hiện chân lý chính xác hơn, hệ thống hơn, có tính bản chất sâu sắc hơn và vì thế, phạm vi ứng dụng của nó cũng rộng hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm (Hội đồng Trung ương, 1999, tr. 363).
Nhờ những ưu điểm trên mà tri thức lý luận có vai trò rất quan trọng đối với thực tiễn, tác động và góp phần biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động năng động có ý thức của con người. Lý luận là
Tri thức lý luận và tri thức kinh nghiệm là hai trình độ phản ánh khác nhau nhưng chúng liên hệ hữu cơ, mật thiết với nhau và bổ sung cho nhau để nắm bắt chuẩn xác hơn bản chất của sự vật. Xét về nguồn gốc của hai trình độ nhận thức này, có tác giả nhầm tưởng nhận thức kinh nghiệm chính là nhận thức cảm tính, và nhận thức lý luận là đồng nhất với nhận thức lý tính. Cách hiểu trên là máy móc, siêu hình, không thấy được tính phức tạp của sự phản ánh bằng ý thức, một thuộc tính đặc biệt, chỉ riêng có ở bộ óc con người chứ không có ở bất cứ một hệ thống vật chất nào khác. Thực ra, nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận không đồng nhất với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. "Ranh giới của nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận, do vậy, không trùng khớp với ranh giới của nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính". Và "nhận thức kinh nghiệm, trên thực tế, có một phần ở trình độ lý tính, do đó nó rộng hơn cảm tính, nhận thức kinh nghiệm bao hàm một phần công việc xử lý về mặt lý tính các tài liệu cảm tính" (Nguyễn Duy Quý, 2000, tr. 18 - 19). Cách hiểu trên phù hợp với tiến trình nhận thức biện chứng hiện đại, được Nguyễn Duy Quý mô tả trong tác phẩm Nhận thức thế giớivi mô.Theo chúng tôi, nếu tuyệt đối hóa một trong hai giai đoạn của nhận thức, để đì đến sự phân định rạch ròi giữa hai trình độ của tri thức khoa học, nhận thức của chúng ta sẽ rơi vào một trong hai cực của quan điểm siêu hình về nhận thức mà lịch sử tư tưởng nhân loại đã từng cho thấy. Đó là chủ nghĩa duy cảm hoặc chủ nghĩa duy lý.
Chia sẻ và tán đồng quan niệm nói trên của Nguyễn Duy Quý, trong bài báo Từ tư duy kinh nghiệm đến tư duylý luận,Hoàng Chí Bảo cũng cho rằng, tri thức kinh nghiệm thông thường "tuy đã ở vào giai đoạn nhận thức lý tính nhưng đó là lý tính chưa đầy đủ chưa khoa học". Tri thức kinh nghiệm thường hướng tới "mô tả những đặc điểm, những mối liên hệ, quan hệ của đối tượng, hơn là phân tích, khái quát những bản chất của sự vật", bởi thế, "phạm vi của tri thức kinh nghiệm hẹp hơn, thuần phác và thô sơ hơn, ít triệt để hơn" (Hoàng Chí Bảo, 1988, tr. 54 - 55). Tuy nhiên, trên thực tế, ranh giới giữa tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận đôi khi chỉ là tương đối, vì không có một kết quả nào của nhận thức lại không phải là sản phẩm của sự thống nhất biện chứng của hai quá trình nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Do tri thức kinh nghiệm có nội dung "khách quan hơn, bắt nguồn từ hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn của con người" (Hữu Ngọc, 1987, tr. 245) nên nó đóng vai trò là cơ sở cung cấp thông tin, dữ liệu chân thực để nhận thức được các thuộc tính bản chất của đối tượng.
Học giả Xô viết, G.I. Ruzavin, trong cuốn Các phương pháp nghiên cứu khoa học,cũng đã chỉ ra sự khác biệt giữa tri thức khoa học và tri thức thông thường.
Phân tích trên cho thấy, việc vươn lên từ trình độ tri thức kinh nghiệm đếntrình độtri thức lý luậnlà một tất yếu khánhquan, nhằm nắm bắt bản chất sự vật một cách ngày càng đầy đủhơn, gần đúnghơn. Hơn thế nữa, đối với nước ta, nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc khắc phục "bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan" mà Vănkiện Đại hội VI( ủa Đảng Cộng sản ViệtNam đã kiên quyết vạch ra (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1986, tr. 26).
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, triết gia cổ điển Đức, I. Kant, cũng đã chia tri thức ra thành tri thức khoa học thông thường.
Phân tích hai cấp độ của tri thức khoa học là tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên đây cho phép chúng ta thấy được mức độ nông sâu của chúng, cũng như vai trò của từng cấp độ tri thức và sự đan xen và tác động qua lại giữa chúng một cách hữu cơ. Giữa các cấp độ, trình độ của tri thức khoa học có sự tiếp nối, kế thừa lẫn nhau. Ngay cả ở trình độ tri thức kinh nghiệm (tiền khoa học) đã xuất hiện những mầm mống của tri thức lý luận. Tri th-ức kinh nghiệm, chính là cơ sở dữ liệu để khái quát hình thành nên tri thức lý luận. Tri thức lý luận nâng tri thức kinh nghiệm lên trình độ cao hơn về chất,từ chỗ là cái cụ thể, đơn nhất trở thành cái có tính khái quát phổ biến. Ngày nay, cùng với việc nâng cao trình độ học vấn của nhân dân, các thuật ngữ khoa học, công nghệ hiện đại cũng được các phương tiện thông tin đại chúng phổ cập và dần đi sâu vào trí óc của quần chúng. Đó chính là cơ sở để họ tiếp nhận và nâng cấp từ trình độ tri thức kinh nghiệm lên đến trình độ tri thức lý luận và nâng cao khả năng du nhập tri thức khoa học áp dụng vào đời sống thực tiễn, biến tri thức đó thành sự giàu có và văn minh. Tri thức khoa học đã và đang đi vào cuộc sống, góp phần nâng cao chất lượng sống của nhân dân, làm cho họ có thể làm chủ được vận mệnh của mình.
Nội dung khác
Tìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu MaiToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà Đoá“Gã nhà quê làm thương hiệu”
25/04/2005Văn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngTri thức có thúc đẩy quá trình tiến hóa hay không?
26/07/2006Đỗ Kiên Cường