Mãi mãi tuổi hai mươi

09:16 CH @ Thứ Ba - 21 Tháng Hai, 2012

Chỉ mới cách ta vài ba thế hệ, muôn vạn con người giống thanh niên chúng ta đã vô tư chiến đấu và hy sinh với những điều đẹp nhất của tuổi thanh xuân để lại tương lai tốt đẹp hơn cho thế hệ sau (nay sự hy sinh đó đi vào trong thinh lặng cho dù truyền thông hô hào về kế tục truyền thống...)

1. Vào bộ đội

Ngày 2-10-1971, 28 ngày sau khi nhập ngũ, Nguyễn Văn Thạc ghi những dòng nhật ký đầu tiên. Cho đến tháng 5-1972, trong suốt tám tháng vừa hành quân vừa ghi chép, anh viết được 240 trang sổ tay. Những “câu văn vội vàng và bụi bặm”, anh viết vậy.

2-10-1971

Nhiều lúc mình cũng không ngờ nổi rằng mình đã đến đây. Không ngờ rằng trên mũ là một ngôi sao. Trên cổ áo là quân hàm đỏ. Cuộc đời bộ đội đến với mình tự nhiên quá, bình thản quá và cũng đột ngột quá.

Thế là thế nào? Cách đây ít lâu, mình còn là sinh viên. Bây giờ thì xa vời lắm rồi những ngày cắp sách lên giảng đường, nghe thầy Đường, thầy Đạo... Không biết bao giờ mình sẽ trở lại những ngày như thế. Hay chẳng còn bao giờ nữa! Có thể lắm. Mình đã lớn rồi. Học bao lâu mà đã làm được gì đâu, đã sống được gì đâu? Chỉ còm cõi vì trang sách, gầy xác đi vì mộng mị hão huyền.

Hai mươi tám ngày trong quân ngũ mình hiểu được nhiều điều có ích. Sống được nhiều ngày có ý nghĩa. Dọc đường hành quân, có dịp xem lại lòng mình, soát lại lòng mình.

Mình bắt đầu sống có trách nhiệm từ đâu, từ lúc nào? Có lẽ từ 9-3-1971, tháng ba của hoa nhãn ban trưa, của hoa sấu và hoa bằng lăng nước.

Những người bạn thân yêu của mình đã lần lượt đi học xa hết cả rồi. Mỗi người một phương. Các bạn đã đi lên phương Bắc. Còn mình, sẽ đi về phương Nam...

Đêm Hà Bắc thật thanh bình. Thèm quá, nghe một tiếng thì thào của cánh gió trên đồi bạch đàn... Mình đã sống trên 20 ngày bên hồ cá Yên Duyên, Yên Sở. Ở đó có những đường cây đẹp tuyệt. Mình đã chụp tấm ảnh bộ đội đầu tiên dưới một gốc dừa, sau lưng là hồ cá. Hoàng hôn thong thả thay màu nước. Và ngôi sao Hôm trầm tư, kiêu hãnh đã mọc trên trời. Cuộc đời bộ đội đâu dễ dàng như thế.

Mình đã khóc, nước mắt giàn giụa, khi các bạn tiễn mình đi, khi buổi lễ kết thúc, khi bài Quốc ca rung bầu không khí trong lành trên Trường Tổng hợp. Bản nhạc này đây, bao lần mình đã nghe, đã cúi đầu suy nghĩ. Nhưng hôm nay mới thực hiểu, thực cảm một điều giản dị: Bài Quốc ca của ta, của ta!

Khóc, không phải vì hèn yếu, không phải vì buồn bã, mà vì xúc động. Vì buổi chia tay này thiêng liêng quá. Những người bạn thân yêu nhất của mình không thể tiễn mình đi được. Và bàn tay ấy, và đôi mắt ấy, giọng nói ấy... Lên xe rồi, xe nổ máy. Xe VN sản xuất, tiếng động cơ như tiếng tim mình vậy.

Nghẹn thắt vì một cảm giác khó tả, mình ngước nhìn lần cuối cùng cánh cửa sổ, nơi hằng ngày mình bò ra, nhìn xuống lòng đường. Khoảng trời nhỏ của riêng mình đó. Một hôm nào, những hôm nào mình mong chờ nhìn thấy bạn của mình đạp xe qua, để mình gọi... Bây giờ, là chia tay, xe lăn bánh, êm ru, xe đi êm, mà bọn mình xô vào nhau, chen nhau thò tay ra cửa.

Xe ơi, lao nhanh hơn, cho ta chóng tới gia đình lớn. Nơi ta gửi gắm cả thời thanh xuân của mình...

Hơn cả khi trên tay phập phồng tờ quyết định. Vui sướng, tự hào, cảm động làm sao khi trên người ta là bộ quân phục xanh màu lá. Anh sinh viên quen màu trắng áo của cánh cò, quen màu xanh da trời tháng nắng... Mình trút bỏ không thương tiếc, và trìu mến khoác lên mình màu xanh ấy. Màu xanh của núi đồi và thảo nguyên, của ước mơ và hi vọng. Màu xanh bất diệt của sự sống.

9g30 phải vào màn, nhưng ta thức trọn một đêm, với bốn bề đang rạng sáng, mặt trời mọc, và em bé đã ríu rít ở hàng ô rô xén gọn. Một tiếng võng kêu, một vệt nắng kẻ ở ngoài hiên, một con nhện giăng tơ trên cành ổi... Có gì khác với nơi ta ở, nơi ta gửi gắm tuổi thơ.

Ta đã bao lần đi bên sông Tô Lịch, trước kia ta khó chịu vì mùi bùn oi nồng... Ta đã mấy lần hành quân bên sông Tô Lịch, ta yêu sông vì bọt tăm sủi, vì màu xanh non, tươi trẻ có công vun đắp của dòng sông. Có phải lòng sông đã quên mình nhơ bẩn, đã chịu lòng mình mang mùi vị ấy để đem cho đời những cọng rau muống tươi kỳ lạ, để đem màu hồng tươi cho thành phố. Sông Tô ơi, mai trở về, ta khơi lại dòng sông, cho tuổi thơ vẫy vùng, cho con thuyền anh chở em đi, đi vòng quanh thành phố...

Hôm nay, đi bên sông, dưới cái nắng chang chang, trên vai là balô con cóc của Trường Sơn. Không thể nói là nhẹ được. Quai đeo thít vào vai, ép lồng ngực lại. Đau và bỏng rát, khó thở. Đè lên hông, ép vào lưng, ướt đầm đìa là mồ hôi ta đấy. Ta đặt balô, và cười luôn được. Ừ, cuộc đời ta là thế. Phải cười và phải vui. Bài hát ta yêu là Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây...

Nguyễn Văn Thạc sinh năm 1952 tại làng Bưởi, Hà Nội trong một gia đình thợ thủ công.

Năm lớp 10 (niên học 1969-1970), Nguyễn Văn Thạc đã đoạt giải nhất cuộc thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc. Với thành tích học tập kể trên, Thạc đã được ban tuyển sinh Hà Nội xếp vào diện đi đào tạo tại Liên Xô. Nhưng theo chủ trương chung, phần lớn những nam học sinh xuất sắc năm đó đều phải ở lại để tham gia quân đội.

Trong khi chờ gọi nhập ngũ, Thạc đã xin thi và đỗ vào khoa toán - cơ của Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội. Vừa học năm thứ nhất, anh vừa tự học thêm để hoàn thành chương trình năm thứ hai và được nhà trường đồng ý cho lên học thẳng năm thứ ba...

Nhưng đó cũng là thời gian cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước vào giai đoạn mới. Chiến trường miền Nam ngày càng gay go và ác liệt. Hàng ngàn SV các trường đại học phải tạm ngừng việc học tập để bổ sung lực lượng chiến đấu cho quân đội. Nguyễn Văn Thạc đã nhập ngũ ngày 6-9-1971...

Trích lời tựa của nhà thơ ĐẶNG VƯƠNG HƯNG
(người sưu tầm - giới thiệu)

Yên Sở ơi, ta yêu Yên Sở như làng quê ta vậy. Nơi trú quân đầu tiên của đời ta. Nơi ta gọi bạn của mình là đồng chí. Nơi em thơ gọi ta là chú bộ đội, và những cô gái làng gọi ta: Chào các anh bộ đội.

Em đừng cười anh vì bộ quân phục thùng thình. Mẹ ta nghèo, rau cháo nuôi ta, đau khổ bốn nghìn năm, chắt chiu từng hạt gạo nuôi ta. Để bây giờ ta lớn. Phải lớn lên, phải to ra cho kịp tầm cao của lịch sử. Cánh tay này sẽ bóp nghẹt cổ quân thù.

Hành quân từ 5 giờ chiều đến 9 giờ đêm, đẹp lắm. Trăng đầu tháng còn đỏ quạch, cứ gợi cho ta nhớ một cánh buồm. Đấy, cánh buồm đỏ thắm, đựng đầy gió, gió cuốn những ngôi sao đêm, ùa vào lòng thuyền và đẩy thuyền trôi trong tâm tưởng... Ngủ bên bờ một dòng sông, có những đường dừa thật đẹp.

Trời trong quá, dây điện chăng như những dòng kẻ của một trang vở học trò. Đừng bấm đèn trêu họ, cứ để họ nói chuyện với nhau. Anh con trai sắp xa người bạn của mình. Cô ta lại về trường học tiếp. Chỉ còn vài tiếng nữa thôi là còi tàu, là chuyển bánh. Anh dặn gì cô ấy, có lẽ chẳng dặn gì đâu, và chỉ mỉm cười... Cậu nào đã cất tiếng hò:

“Tiếng ai như tiếng chuông vàng
Tiếng ai như tiếng cô nàng của anh...”

Còn tiếng này thì đúng là giọng anh Châu rồi, anh “Mộng Châu”:

“Anh yêu em lắm em ơi,
Nhưng anh chẳng dám ngỏ lời với em...”

Lính khoái, cười khúc khích... Những vì sao dưới sông cũng va vào nhau... Những cánh dừa cũng nắm tay nhau tinh nghịch bay qua bầu trời thanh bình. Tiếng động cơ như xay lúa.

Đêm đẹp vô cùng, ta lắng nghe đất thở. Anh bạn nằm bên rọi đèn pin tìm gì, có phải anh tìm con dế đang cần cù dạo bản nhạc đêm của Pritsvin? Không cưỡng nổi, ta lấy giấy và viết thư cho Như Anh...

4-10-1971

“Anh hẹn em cuối tuần/Chờ nhau nơi cuối phố/Biết anh thích màu trời/Em đã bồi hồi, chọn màu áo xanh/Sáng chủ nhật trời trong/Nhưng trong lòng dâng sóng/Chẳng thấy bóng anh sang/Đêm thứ hai thu vàng/Đêm thứ ba thu tàn/Mùa đông thứ tư sang...”

Bạn, đừng hát nữa, mà làm nao lòng bộ đội. Ta bước trên đồi bạch đàn, dưới chân là đá sỏi... Chao ôi, bầu trời xanh quá, màu áo thân yêu của ta đã xếp lại nơi nhà...

... Có phải đời ta là cầm AK đánh giặc. Đứng trên đồi phun lửa vào kẻ thù, dạn dày, thầm lặng... chẳng cần ai biết đến đâu. Rồi lúc nào ta chết, chỉ cầu xin một điều, trên nấm mồ của ta là cây bạch đàn; cây bạch đàn mảnh dẻ...

Nằm trong lòng đất, giá còn được nghĩ, ta sẽ làm thơ, ừ, làm thơ, làm toán... Chà, lập dị, lập dị, ngớ ngẩn đến thế nữa cơ.

Sao bây giờ ghét đời sinh viên đến thế. Thõng thẹo và ọp ẹp. Phải sống khỏe mạnh, dữ dội trong lửa đạn.

Dân quý anh bộ đội. Bọn mình đi xin tre về làm nhà ở. Tre đấy, ngoài vườn, anh cứ ra mà chặt. Tre đực, tre cái, tre bánh tẻ đan lóng đôi, lóng mốt, đan sọt đeo đá sau lưng. Cây tre VN, lòng bà mẹ VN, có phải bây giờ ta mới hiểu đâu. Nhưng bây giờ ta mới được nhìn, được thấy...

Một thế hệ đã ra đi như thế, phơi phới một niềm tin. Cảm xúc trữ tình tràn ngập trên những trang ghi chép của chàng trai Hà Nội. Nhưng cuộc sống gian khó cũng theo bước chân anh. Và con người lãng mạn ấy đã có lần giật mình đau đớn trước một sự dửng dưng...

2.Chuyện đau lòng

Thằng Mỹ, nó là cái gì mà mơ hồ như thế? Đi bộ đội, mình cảm thấy hơi mông lung trong việc nhìn nhận kẻ thù. Hố bom còn toác ra ở trên đồi. Và cảnh làng xóm tiêu điều, bị tàn phá ngày 29-2-1968, ta đâu có quên. Mặt mũi thằng Mỹ thế nào? Hẳn đó cũng là khuôn mặt người bị bóp méo xộc xệch. Hẳn đó là bộ mặt nhăn nhúm trước ánh sáng mặt trời.

Đêm ấy, thật đau lòng. Hồi chiều, bị ném 40 quả bom. Điện bị đứt lung tung. Làng xóm chìm trong tang tóc và bóng đêm. Ở ngay trước ngõ là một bát hương hiu hiu khói. Anh Phúc bị bom tiện đứt cả chân tay, nằm trong chiếc quan tài đỏ, ngọn đuốc nứa thổi phừng phừng, cái xe bò lăn lộc cộc... Sao giống “chiếc quan tài” như thế.

Ta ngồi đây, thanh bình như thế. Nhưng ở cuối trời Tổ quốc, bao nhiêu người con ưu tú của dân tộc đang đổ máu, đang giập gãy từng khúc xương, đang bị kẻ thù đày đọa và các đồng chí của ta, anh giải phóng quân kiên cường đang nín thở đợi giờ xung trận, đang đói rét và đau nhói vết thương trên một cánh rừng già.

Vậy mà, lại đến giờ đi ngủ. Những cơn gió liu riu trên cành tre đưa ta vào cơn mơ - Ta lại trở về với cái ngõ nhỏ của mình... Lạc lõng ư? Có lẽ nào!

Ta biết giấu mặt vào đâu, vào gấu quần hay gấu áo, khi đường Trường Sơn không có dấu chân ta? Khi cả cuộc đời ta chưa có cái niềm vui mãnh liệt của người chiến thắng, cắm cờ Tổ quốc trên cả nước thân yêu.

26-11-1971

Cột cây số chỉ Bắc Giang 22km. Tiến về phía đó... 600 con người gò lưng và bước. 30kg trên lưng, đường bụi... Phải, lần nào hành quân cũng vậy. Không còn nghĩ ngợi được gì nữa. Thiên nhiên thu hẹp bằng nắp vung dưới gót chân người đi trước. Không gian như co, như dồn, như ép, ép mạnh vào khắp cơ thể, vào cổ, vào vai, vào lưng, vào chân. Mệt lắm, nặng lắm. Sự thật gồ ghề biết chừng nào.

Ta như lần tay trên cạnh sắc lạnh của cuộc đời, và nhớ da diết đến P. (*); dường như đối lập với cái khô khỏng và dữ dội ấy là hạnh phúc êm đềm khi đứng bên P.. Ôi, đôi vai tròn, nhỏ nhắn, gò má và đôi mắt mềm đằm thắm biết chừng nào... Nhìn mãi, nhìn mãi mà không thấy P. đâu. Chỉ thấy bụi, cát, ồn ào và nặng nề, mỏi mệt. Chỉ thấy gánh nặng của đời đè gí hai vai.

Nặng quá và xa lắm. Được nghỉ là ngã luôn xuống vệ đường, không đủ sức tháo người ra khỏi balô nữa. Nếu như có P. ở đây, P. sẽ nghĩ gì ? Có thương mình không nhỉ? P. sẽ nghĩ gì khi người bạn của riêng P. nằm há hốc mồm mà thở, rời rã chân tay và ngủ thiếp đi trên cánh đồng khô đầy bụi và chang chang nắng... Nhưng nếu có P. ở đây có lẽ mình cũng không nằm thế và sẽ đi bắt chuồn chuồn!

29-11-1971


Ngày lên đường nhập ngũ của sinh viên Trường ĐH Tổng hợp (ảnh đăng trên báo Nhân Dân)
Bắt đầu vào làng, chỗ này là Đông Du thì phải. Dân thưa thớt và bộ đội thì đông hơn dân nhiều. Có người tính tỉ lệ 9/10. Kể thì hơi ngoa. Nhưng cũng có lý đấy. Tiểu đoàn trưởng đứng đợi dưới một gốc tre. Cán bộ của mình cũng chẳng khác gì chiến sĩ, cũng balô, cũng gạo và súng. Chỉ khác, các đồng chí đó đi thẳng người và bước vững vàng hơn lính nhiều. Cũng phải thôi, đánh Pháp rồi đánh Mỹ, bao nhiêu năm đi trên con đường lửa, con đường lớn của dân tộc.

Sao con đường dài thế, dài mãi.

Đến ngã ba, chưa gặp giao liên, bộ đội ùn lại và cúi gập người cho balô đỡ siết vào vai. Khát quá, nhưng chỉ có nước ao. Biđông chưa được phát. Dường như cấp trên cố ý tạo ra tình huống này - “Rèn”! Chao ôi, cái chữ đáng ghét thế!

Thôi, đây rồi, tụi quỉ, tiền trạm gì mà “hậu” thế! Mãi bây giờ mới gặp. Và thế là “chỉ còn 3km”. Quên đi, cái balô ác nghiệt trên vai, cái nắng trên đầu, cái nóng, cái mệt trong người và hãy nghĩ đến cái dịu dàng, thắm thiết của đôi mắt N. Anh, của đôi vai N. Anh, của hai bàn tay thấm mát hơi xuân...

Đỉnh dốc là chỗ ở, vậy mà 2/3 quân số nằm lăn ở chân đồi, cúi mãi, cúi mãi, tưởng như muốn đi bằng cả hai tay và hai chân. Bò lên, bò lên!

Nhưng, thế còn sung sướng lắm. Thế mới chỉ là cái vất vả, cái gian khổ về cơ thể, về vật chất. Còn cái khổ hơn, cái đau đớn về tinh thần là sự thờ ơ của bà con trong xóm đồi.

Thấp thoáng trong nhà lưng chừng dốc là những cặp mắt nghi ngờ, hơi xa lạ. Ta tự hỏi: Họ là ai, có phải là bà mẹ Việt Nam từ ngàn đời thương anh bộ đội? Có phải các cháu nhỏ, các em thơ ríu rít quấn lấy tay anh? Mà sao bàng quan thế, dửng dưng thế... Ôi chao là buồn...

Họ nhìn quanh, lạnh lẽo và thụt vội vào nhà trong, cánh cửa tre hạ xuống, chó sủa ran...

Bọn mình mệt quá rồi, không đủ sức đứng dậy vào nhà nữa và nằm lăn dưới bóng tre mà nghỉ và kiếm cách vào nhà.

Không gian im ắng quá. Và chẳng thấy lũ trẻ chơi trong ngõ nhỏ. Xung quanh chỉ toàn cây, tre, chay, cây đen, cây mít. Cây um tùm như an ủi, phải, cây lá này vẫn cây lá quê hương. Nó đâu lạnh lùng với anh bộ đội...

Nghỉ chán, bọn mình chia nhau vào các gia đình vận động. Bẩn quá, bẩn quá, nhà cửa có một thứ mùi chua, mốc, mùi thời gian quá dài chưa quét dọn. Nét đặc trưng là lắm ruồi và nhiều “tàu há mồm” quá. Nhà nào ít nhất cũng năm đứa trẻ dưới 10 tuổi! Ồn ào và luộm thuộm, chứng tỏ mức độ giác ngộ của dân chưa cao lắm.

Vào nhà nào họ cũng đuổi. Lắm lý do đến thế, nào là : Đợi ông ấy về... Tệ hơn, có gia đình không thèm tiếp và trả lời: Gia đình tôi chưa có ai đi bộ đội nên không biết đối xử với các chú như thế nào!

Bọn mình không biết nói sao nữa. Ra ư, thì chỉ có bụi tre và đỉnh đồi thôi. Phải bám vào dân mà sống! Bám lấy dân.

Thế là chưa được cơm cháo gì, bụng đói, mệt, bọn mình vào nhà, giúp gia đình quét dọn, gánh nước, xe tơ. Nhà ở trên đồi nên nước hiếm hoi. Phải xuống chân dốc và ở đó có cái giếng chung của cả làng.

Vừa làm vừa trò chuyện, vừa xin vào ở một góc nhà đặt balô thôi. Mãi đến chiều họ mới cho vào nhà, cho giường chiếu hẳn hoi và giục “các chú nấu cơm ăn”.

Khi đó mới biết đơn vị trước ở đây làm mất uy tín ghê quá, toàn đánh nhau, cãi nhau, đánh cắp của nhau. 3/4 số xoong quân dụng bị mất, rồi quân trang, quân dụng mất lung tung. Tệ quá.

Bậy bạ thế thì thôi. Nhưng hậu quả lại dồn lên đầu bọn mình. Ngay đêm, đại đội họp cấp tốc trên thửa ruộng còn trơ chân rạ. Phải gấp rút khôi phục uy tín của quân đội.

Gia đình mình ở có chín người. Bác chủ nhà 55 tuổi rồi và ngày ngày vác thuyền nan đi đánh lưới trên sông. Tụi nhóc còn nhỏ, cô gái thứ hai tên là Thà, 17 tuổi, đi làm suốt ngày và ban đêm cũng chẳng về. Nhưng nếu cô ta về thì cả nhà biết ngay vì cái mồm to và liến thoắng của cô. Cái giọng chan chát nghe đến chói tai. Khổ cho anh chàng nào vớ phải cô ấy suốt đời có lẽ chẳng được nghe cô ấy thì thầm (!).

Còn tụi nhóc thì bẩn, bẩn lắm. Chân tay bọc một lớp đất đen như da cóc. Toàn uống nước lã và không bao giờ rửa tay cả. Đêm đi ngủ thì tót lên giường, sáng dậy lấy khăn mặt còn ướt của người lớn lau cuống quít và thế là mở đầu một ngày!

Mình rất không thích cái tò mò, cái ưa lục lọi của tụi nhóc ấy. Đặt balô xuống là sà đến và nắn cái nọ, sờ cái kia, chẳng ra làm sao cả. Nhất là thằng Hành, học vỡ lòng, hư lắm.

Tế bảo: “Phải rèn bọn này mới được”. Bỏ một buổi rủ chúng nó đi chơi và dặn dò: “Các chú để súng đạn trong balô, đừng đụng gì đến nó nổ”...

Thế là ổn. Còn phải vệ sinh vệ sống cho các ngài nữa chứ. Rõ khổ.

Nhưng cũng thấy thương gia đình và các cháu. Lỗi ấy đâu phải vì bố mẹ hay vì bản thân chúng. Mà vì thằng đế quốc, vì lụt lội. Vì kẻ thù của dân tộc ở bên kia bờ Thái Bình Dương...

Tuổi 20 nồng nàn và hăng hái ấy cứ nhớ đi nhớ lại một nỗi xao xuyến khi người con gái anh yêu nhẹ nhàng đặt bàn tay mềm dịu lên bờ vai anh...

Đó là buổi tối cuối cùng của họ. Xa nhau rồi, anh ngơ ngác tự hỏi có lẽ nào tất cả chỉ là như thế, vĩnh viễn cũng chỉ là như thế. “Có lẽ nào đó là tột cùng của hạnh phúc?”.

Nỗi xúc động đau đớn bỗng trào lên trong lòng người đọc hôm nay...

3. Nhớ Hà Nội, nhớ một người


Như Anh (ảnh chụp tại Liên Xô năm 1971)
2-12-1971
Chưa bao giờ mình xa nhà lâu như thế này, chưa bao giờ nhớ cha mẹ, anh em và bè bạn như bây giờ...

Bọn nó trốn về nhiều, có lẽ vì không chịu được cái cảnh nhớ nhung đáng sợ này. Từ đây ra đường 18 chỉ có một khoảng đồng. Ở xa này, nhìn ôtô, xe đạp lăn từ tốn qua các thân cây mà muốn chạy vù xuống đó.

Rồi Hà Nội, gia đình, đường Nguyễn Ái Quốc và phố Nguyễn Du... Bao nhiêu điều hứa hẹn còn bỏ dở, bản nhạc dừng lại ở âm da diết nhất... N. Anh, giữ ngón tay yêu dấu ấy ở phím đàn và đừng buông ra, đừng buông, nghe thấy không, N. Anh, đừng mỏi mệt...

Không ai muốn cuộc đời mình phải buồn bã cả, nhưng rất ít người trên đời này đạt được điều mình mong muốn. Mất mát nhiều, nhưng cố gắng làm sao cho mình khỏi thất vọng, khỏi mất nghị lực luôn hun cháy lòng mình. Đó mới là điều quan trọng.

Thư cho Phong, mình viết: “Còn nhớ không Phong, dạo lớp 10, Phong đọc trước lớp bài Đường chúng ta đi khiến hai đứa mình cảm động. Ở cái cành ổi đã nhẵn bóng vết tay mình, Phong với mình ao ước được sống những giờ phút như thế. Giờ phút Phong bảo con người với đất nước là một và người lính trở thành con người lý tưởng của thời đại”.

Mình gửi cùng lá thư là những đoạn Đường chúng ta đi học thuộc từ hồi đi học. Phong có nhận được không, qua Trường Sơn, qua dốc Bà Định, dốc Nguyễn Chí Thanh, qua chặng đường quyết thắng. Và trong bom đạn, Phong có trả lời câu hỏi mà cuộc sống đặt ra...

Thường khi, do tác động tích cực của văn học và sách báo tuyên truyền, người ta có suy nghĩ và cảm xúc tiến bộ, khá mãnh liệt đằng khác. Nhưng ít ai kiểm tra mình xem tình cảm và suy nghĩ đó có thật là bản chất của mình hay không.

Có thật nó bắt nguồn rễ sâu xa từ tận cùng cảm nghĩ, từ đáy lòng mình? Có ai tự kiểm tra mình, tự kiểm tra cảm xúc và suy nghĩ của mình, xem bản thân mình có lấy những rung cảm tốt đẹp đó làm quan niệm sống, chứ không phải làm một thứ đồ trang sức rủng roẻng?

Chính trị viên Các hỏi mình thích đi đâu. Mình chỉ thích bộ binh, đánh nhau thế mới khoái và ít bị phụ thuộc vào máy móc. Vả lại, đi bộ binh gần dân hơn, biết nhiều điều thú vị hơn.

3-12-1971

Vẫn như hôm qua, ngủ và chơi bời lêu lổng. Chán ngán lắm rồi, bắt đầu đi lùng trong xóm.

Hết mía lại sắn, sắn ăn chóng no, chóng chán. Ở đây chỉ có thế. Và nếu chán thì chịu, dân đi làm đồng hết cả rồi, chẳng có ai ở nhà mà nói chuyện. Quanh quẩn với cái sân phơi rơm rạ, với cái vại chỉ hai gánh nước là đầy. Ngủ chán rồi lại thức, lại nóng ruột.

Lại thêm ba người nữa “tút” về Hà Nội. Họ không chịu nổi tình trạng nằm đợi ghê sợ này.

Lê Như Thanh và Đỗ Thành xin mãi cũng được về. Thanh nó khoái lắm và vanh vách kể cho mình cuộc sống đang phát triển của thủ đô. Nó không dám đến trường vì sợ xúc động. Thanh bảo không dám kể tình hình thật của đơn vị cho gia đình vì nó sợ gia đình không yên tâm. Toàn bốc phét nào là tập ít, ăn khỏe, sướng, vui... rồi triển vọng binh, quân chủng cao xa...

Còn Thành thì khác. Anh ta tưởng bà mẹ “bôn” lắm. Thế là kể ráo. Bà ngồi yên lặng nghe đứa con trai nhỏ của mình thủ thỉ. Suốt bữa cơm bà không nói không rằng. Và khi con đi, bà òa lên khóc, đứng chắn ở cửa nhất định giữ nó ở nhà.

Thế đấy, mẹ mình chắc là không thế. Mẹ mình chưa khóc bao giờ trong những lần tiễn con đi. Mình lại nhớ câu thơ của Trần Vàng Sao, đại ý: Bao nhiêu nước mắt mẹ thấm vào vạt áo, để đường con đi không bị ướt... Mẹ mình dũng cảm lắm, biết hi sinh lắm.

Nghĩ về Hà Nội là nghĩ về N. Anh, nghĩ đến những ngày bên nhau đi trong hương đêm mùa hè, của đêm mùa thu... Ta gặp nhau làm gì nhỉ? Ta nắm tay nhau làm gì nhỉ? Ta siết chặt trong nỗi xúc động làm gì... N. Anh bé nhỏ yêu dấu đêm nay ở đâu... Thương N. Anh thật nhiều mà không biết nói sao, không biết làm sao cả.

Tội nghiệp N. Anh, cứ phải buồn mãi, buồn dai dẳng... Sao không vui với bạn bè mỉm cười. Mùa xuân... đâu rồi? Đêm gần nhau nhất lại là đêm chia tay. Hạnh phúc thả những đốm sáng bay lơ lửng trên trời. Vũ trụ bao la quá mà tay N. Anh nhỏ nhắn chừng nào...

Bao nhiêu đêm nằm mơ, mình trở lại buổi tối cuối cùng, khi N. Anh dừng xe ở đằng sau và đặt nhẹ bàn tay lên vai trái. Mình ngoảnh lại... thế rồi không còn mơ được gì nữa, cứ trượt theo những đường cong mềm mại... Mai, ta xa nhau rồi, vậy mà có ai nói được với ai điều gì đâu, cứ mặc làn gió thơm mùi đồng nội vuốt ve mái tóc...

Mới đó mà ta xa nhau, thật là kinh khủng. Có lẽ nào tất cả chỉ là như thế. Có lẽ nào tất cả chỉ là như thế và vĩnh viễn cũng chỉ là như thế. Có lẽ nào đó là tột cùng hạnh phúc? Còn sau này chỉ là đau khổ và mòn mỏi, hối tiếc...

Phải chi đừng gặp N. Anh thì bây giờ đỡ hối hận biết bao. Dẫu có phải mất đi những tháng năm đẹp đẽ ấy cho N. Anh bình yên và hạnh phúc.

Tội lỗi đó không bao giờ mình có thể tự tha thứ cho được. Càng nghĩ nhiều càng thấy mông lung và thương N. Anh, thương cả mình nữa. Trái tim ơi, vỡ ra và đừng bao giờ rung nữa. Cho ta thảnh thơi, cho N. Anh hạnh phúc... Buồn lắm, cuộc sống riêng của mình. Càng nghĩ càng buồn, nhất là trong những ngày này.

Bao giờ mình mới thoát khỏi sự chờ đợi đáng ghét như hôm nay? Đi chiến đấu chắc say sưa và hào hứng hơn chăng?

Thông bảo mình đi hỏa lực bộ binh. Mình thích lắm. Nhanh nhanh mà đi B chứ không thì hết địch đến nơi. Nghe phong thanh trên bộ lấy lính lái xe tăng, tụi nó thích lắm. Thích gì cái con rùa thép ấy, chỉ oai ở ngoài này thôi chứ khó mà được vào trong ấy.

Đại đội trưởng Châu mới về, trẻ măng, 24 tuổi. Anh là biệt động của Quảng Ngãi. Nghe kể dạo tổng tiến công mà tiếc đứt ruột. Dạo ấy mình lớp 8 nhỉ, còn nhỏ quá.

7-12-1971

... Không ai phút này cảm thấy cô đơn
Nhưng da diết vẫn gợi về Hà Nội!
Phố nhỏ se se đang mùa gió nổi
Có chút gì xúc động mãi theo đi...

Bằng Việt nhỉ, ừ, Bằng Việt, trong một Mùa xuân xa Hà Nội. Nhưng bây giờ lại đang là mùa đông. Lẽ ra đang lạnh. Vậy mà chưa. Năm nay rét muộn nên rét dữ. Không biết bao giờ mới như Trường Phước Mãi hôm nay mới thực đông về...

Hôm 5-12, được về qua Hà Nội mấy tiếng đồng hồ, mới cảm thấy hết hạnh phúc đơn sơ mà ngày thường không để ý.

Xe dừng lại ở bến Nứa, mình vội đến luôn nhà các bạn, đến trường...

Trường Tổng hợp như hẹp hơn hôm qua, ít gặp người quen thuộc. Dừng lại dưới chân cầu thang, bùi ngùi và buồn vô hạn... Tất cả như vụt đứng dậy! Vụt ào ra, ôi, kỷ niệm... Và đậm đà là bóng dáng N. Anh, hôm qua, hôm qua, đứng gõ cửa thật nhẹ...

Vụt ào ra, như cửa sông, thời sinh viên say mê, hồ hởi... Giật mình, sờ lên vai áo, cổ áo. Cuộc sống vẫn như xưa, ồn ào, nghịch ngợm. Nhà cửa vẫn bẩn và ngọn đèn vẫn trải vô vàn đường sáng.

Dắt Hải đi chơi, một lát, chia tay ở gốc cây thứ ba, nơi nửa năm trước, ngày 30-5, chia tay N. Anh.. “Hải có biết tại sao mình chia tay với Hải ở đây không? Ở gốc cây thứ ba này, mình đã chia tay với bạn thân yêu nhất của mình...”. Chỗ ấy, cái miếu nhỏ, ngã tư, Văn Miếu...

Lại đi trên đường Nguyễn Ái Quốc. Thú vị vô cùng, chỉ thiếu N. Anh. Nhưng, không sao cả, “hạnh phúc bắt đầu từ chỗ biết xa nhau”...

Quả thật, về nhà, ở bên bố mẹ, gia đình sao thanh thản lạ. Suốt đêm không ngủ, không muốn ngủ tí nào. Nằm nhìn đỉnh màn và nghe tiếng thở của gia đình. Tự dưng thấy mình lớn lên nhiều. Tưởng chừng có thể che chở cho cả gia đình.

Bố mẹ yếu đi nhiều, gầy đi nhiều. Nhà cửa bề bộn lắm. Bao nhiêu điều phức tạp giày vò bố mẹ mình. Không thanh thản như mọi người, không sung sướng và nhàn hạ như bố mẹ người. Vì sao? Vì sao?

Câu hỏi trả lời dễ và khó. Song ta biết cách trả lời.

Cái ôtô lăn bánh qua cầu Long Biên. Lại xa Hà Nội. Sông Hồng ơi, sông Hồng...

Bè nứa phơi trên cát bãi sông Hồng
Nơi tuổi nhỏ ta đi câu cá
Những chiếc xà lan ngày ấy nông nổi quá
Nay trầm tĩnh ngược sông chở đá chữa cầu...

Qua cửa kính mờ bụi, ta bối rối chào dòng sông đỏ và nhẩm đọc vần thơ Lưu Quang Vũ. Thế là lại xa Hà Nội, lại xa thủ đô và biết đến bao giờ?

Tạm biệt ngôi nhà, tạm biệt con người, đường phố và những dòng cây xanh chảy trên vỉa hè thành phố. Tạm biệt đôi mắt đen ở chân trời.

Tâm hồn nhạy cảm ấy, dễ vui hơn mà cũng dễ buồn hơn trước cuộc đời. “Sự thật gồ ghề biết chừng nào”, một lần anh thanh thản viết vậy. Nhưng khi sự gồ ghề ấy đến với chính cuộc đời anh!?

Hơn 30 năm đã trôi qua, nỗi đau đớn của một tuổi trẻ trong veo như vẫn còn làm đau người đọc...

4. Những ngày buồn


Gia đình (ảnh chụp tại Cổ Nhuế năm 1971)
24-12-1971

Gấp cuốn sách vào và suy nghĩ về Paven (nhân vật chính trong Thép đã tôi thế đấy - TT). Những trang cuối của tiểu thuyết để lại cho mình nhiều chấn động mạnh hơn cả. Mình chú ý nhiều đến bức ảnh Paven ngồi như một ông già nhưng sôi sục ngọn lửa sống. Lúc ấy ở bên bờ biển và ánh nắng đã nhạt dần...

Cái gì nấp đằng sau con người ấy? Cái gì làm nên nghị lực phi thường và dễ hiểu của Paven? Thật dễ hiểu.

Mình thèm khát được sống như thế. Sống trọn vẹn cuộc đời mình cho Đảng, cho giai cấp. Sống vững vàng trước những cơn bão táp của cách mạng và của cuộc đời riêng.

Hôm nay, lần đầu tiên trong đời mình cảm thấy hổ thẹn với mọi người, hổ thẹn với Paven, Pavơlusa thân yêu. Mình chưa phải là một đảng viên!

Buổi chiều, đang họp A, anh Lộc gọi ra sân và hỏi mình có giấy cảm tình Đảng không. Lúc đó, chỉ hơi thoáng qua một ý nghĩ còn mờ nhạt. Sao mình tới giờ vẫn chưa thấy gần gũi với Đảng của Bác Hồ? Anh Lộc bỏ đi khi mình lắc đầu. Mình như có lỗi gì đó, cái lỗi rất lớn mà bấy lâu mình không biết.

Sao trước kia mình không hề lúc nào nghĩ đến điều đó cả? Có phải vì mình thấy Đảng quá cao siêu và mình không thể nào với tới? Có phải vì mình kém nghị lực chiến đấu; kém tinh thần vươn lên và cam chịu sống cuộc đời riêng biệt, tẻ nhạt với những rung động êm đềm? Có phải vì mình thấy trước được những trở ngại không thể nào vượt qua được mà cảm thấy phiền lòng?

10-1-1972

Năm ơi! Năm đang ở đâu rồi?

Thật không ngờ chiều qua lại là lần cuối cùng hai đứa ở bên nhau. Còn bây giờ, xa lắm rồi, xa lắm, nếu Năm không quay trở về đội ngũ.

Đảo ngũ! Thật không thể tưởng tượng được.

Đêm nay bơ vơ ở đâu, ở trên một chặng đường xe lửa hay một con đường lay lứt? Năm có cảm thấy lạnh lùng, trống rỗng hay không? Chắc mày trách tao lắm hả, ừ, tao tự trách mình nhiều lắm, sao để mày như thế, sao để mày như thế...

Sao trước kia không thương mày nhiều hơn nữa, không gần gũi mà hiểu mày hơn nữa. Giấy truy nã mày tao cầm trong tay đây. Sớm mai sẽ có người xa lạ nào cầm đọc, người ta sẽ nguyền rủa mày, khinh bỉ mày Năm ơi!

Năm ơi, quay trở lại đi, quay lại và rủ thằng Thỏi nữa, đồng đội và tao đang chờ mày. Cái giường ọp ẹp vẫn dành chỗ ấm nhất cho mày đó. Sao mày lại bỏ đi mà ngủ trên một quãng đồng trống trải, lạnh lùng... Năm à, quay lại đi!

4-3-1972

12 giờ 15

Cứ mỗi lần bỏ cái mũ ra, người ta lại ồ lên kinh ngạc vì mái đầu bạc của tôi! Sao người ta tàn nhẫn thế hở những người xung quanh? Thử giật một sợi tóc vô tình, phần lớn là tóc bạc, những sợi tóc trong trẻo, trắng muốt thế, mà lại là nỗi buồn êm dịu, nỗi buồn dai dẳng, đau đớn và dữ dội của lòng tôi ? Chẳng lẽ tôi đã già đi như vậy? Già trước tuổi, già trước tất cả những gì tôi đã trải qua và chưa hề trải qua?

Tôi lo lắng chút gì về bản thân, lo nhiều vì tôi chưa làm việc ra hồn, lo nhiều vì thời gian trôi đi nhanh và mất hút sau lỗ rách của mái lều...

Đừng ai xem những dòng này. Vả lại cuốn nhật ký này chắc cũng chẳng bao giờ có ai xem được. Tôi sẽ chỉ giữ những cảm xúc này cho tới lúc vĩnh biệt miền Bắc thân yêu đi chiến đấu, và sẽ biến những trang giấy vô duyên này thành ngọn lửa hun cay sè mắt tiễn biệt tôi. Vì chắc chắn chẳng có ai tiễn đưa tôi cả. Tôi đi và gửi tấm thân này ở một miền đất nào đấy mà tôi biết hoặc chưa thể biết tên.

25-3-1972

Thạc đừng kéo Như Anh lại nữa. Thạc để Như Anh đi đi. Thạc sống một mình như vậy nhé. Hạnh phúc của đời chỉ dành cho Thạc thế mà thôi.

Phải, giờ đây tôi ân hận rất nhiều. Tôi tự trách mình sao đã tìm đến Như Anh. Phải, bao nhiêu lần tôi nhủ Như Anh đừng chờ tôi làm gì nữa. Nhưng chính lúc tôi nói những điều ấy trong thư, thì tâm hồn và trái tim tôi bàng bạc một dòng tha thiết: chờ Thạc, Như Anh nhé. Chờ Thạc, như cô gái VN chung thủy trọn đời với người yêu đi chiến đấu. Chờ Thạc, như cô gái trong bài thơ của Tế Hanh: Em chờ anh không biết có thời gian...

7-5-1972

Người nhà Nguyễn Văn Thạc kể lại, trước Cách mạng tháng 8-1945 Thạc có người bác họ làm phó lý ở quê.

Trong cải cách ruộng đất, ông này bị quy là thành phần “địa chủ, cường hào” (sau này ông đã được “sửa sai” và mất vì tuổi già).

Thêm nữa, bố mẹ Thạc từng có một xưởng nhuộm và dệt thủ công, với khoảng 15 người làm, toàn con cháu trong nhà.

Dù phương tiện máy móc của cái xưởng nhỏ này đã bị “sung công” vào hợp tác xã, khi xảy ra chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ và gia đình đã bị phá sản, nhưng bố mẹ Thạc vẫn được coi là “tiểu chủ”...

ĐẶNG VƯƠNG HƯNG

18 năm rồi ư? Từ ngày chiến thắng Điện Biên lừng lẫy địa cầu. Những ngày đó mình mới chỉ là đứa bé lên 2. Đã biết gì đâu. Người ta bảo rằng không ai khi nằm trong bụng mẹ đã hỏi được hoàn cảnh xuất thân của mình. Không thể hỏi được mình đã sinh ra trong gia đình thế nào, tư sản hay địa chủ cường hào!

Từ rất lâu rồi mình vẫn mơ hồ về gia đình của chính mình. Những người khác, những người bạn khác của mình họ thường tự hào về hoàn cảnh xuất thân của họ. Tự hào về các anh chị và các em, ông bác, ông chú xa xa, gần gần của họ. Rồi còn vô vàn cái để họ tự hào nữa. Mỗi khi nhắc đến lý lịch là người ta lại cảm thấy trào dâng lên một niềm vui, một nỗi sung sướng pha chút gì kiêu ngạo. Có lẽ bởi vì con người họ không có chút gì đáng tự hào nên họ phải làm như thế chăng?

Cũng phải thôi, vì bản thân họ rất sung sướng được sống và sinh ra trong một gia đình cách mạng, cha mẹ, ông bà họ là những người đã đổ xương máu cho dân tộc, cho giai cấp. Và giờ đây, Đảng đặt lòng tin vào con em các bậc tiền bối cách mạng ấy.

Chao ôi, bao nhiêu lần mình ao ước có được hạnh phúc xa vời ấy, được Đảng tin và trao cho những nhiệm vụ nặng nề.

Khi còn ở trường phổ thông, dẫu sao quan hệ chính trị cũng còn bằng lặng. Tuổi thơ trong sáng biết chừng nào, nó chưa bị vết đen của quá khứ gia đình đè trĩu hai vai. Người ta hoàn toàn được bình đẳng với nhau trong mọi quan hệ. Chỉ vì hơi gợn một chút qua thái độ của cô hiệu phó cấp III một ít. Song, còn thoải mái lắm.

Ở trường đại học, nhất là Trường Tổng hợp, nhà trường chú ý nhiều đến chuyên môn và ít chú ý đến chính trị mấy. Người ta lao vào học tập, vào những cuốn sách, và cứ nghĩ rằng đó là chống Mỹ cứu nước rồi. Không nhiều lắm những người chỉ thích đi làm cán bộ lớp, cán bộ Đoàn như kiểu Thuỵ, Qui... Vả lại, trong trường ĐH, con em gia đình không cơ bản không phải là ít. Đầy rẫy ra đấy. Mà phần lớn lại là những đứa học giỏi, rất giỏi của lớp!

Còn giờ đây thì khác nhiều rồi. Đâu ra đấy cả. Cùng là hai người không hề khác nhau gì về bản thân họ nhưng lý lịch trong sạch, nhất là đỏ thực sự, là khác nhau lắm rồi.

Rất nhiều khi đứng nhìn đoàn bộ đội đi qua, mình cũng thấy lẻ loi, lẻ loi quá đi mất! Khuôn mặt nào cũng đẹp, mình cứ nghĩ chỉ có những người cộng sản thực sự mới sinh ra được đoàn quân ấy. Họ đi, họ đi... và có lẽ họ chẳng biết rằng họ đang được hưởng một gia sản quí báu mà ông cha ruột thịt của họ mang lại.

Cứ mỗi lần khai lý lịch, mình lại buồn, buồn tận sâu xa. Anh Thục cảm tình Đảng từ lâu rồi mà chưa được kết nạp. Và cứ càng về sau, nói chuyện với anh, mình lại cảm thấy anh cứ đuối dần, cứ đuối dần. Anh cứ thất vọng dần.

8-5-1972

Thực tình đã có dấu hiệu gì chứng tỏ mình “bị loại ra khỏi đội ngũ” đâu! Nhưng linh tính cứ cho mình biết rằng mình không thể trở thành một đảng viên được. Mơ hồ thấy rằng khó khăn đến với mình sẽ nhiều đây.

Không sao hết! Miễn rằng anh sống thực sự như một đảng viên, thế đã tạm đủ rồi. Vào Đảng để làm gì nhỉ? Khi người ta đã sống và làm việc như một đảng viên rồi! Không nên suy nghĩ gì về chuyện ấy hết. Đảng khắc sáng suốt và dìu dắt mình. Điều cơ bản nhất, gia đình mình là gia đình lao động, cha mẹ mình là người lao động và hoàn toàn giác ngộ. Mình luôn luôn tin là thế.

“Hạnh phúc là gì, bao lần ta lúng túng/hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi chưa ra/cho đến ngày cất bước đi xa/Miền Nam gọi...”.

Một thế hệ đã đi tìm câu trả lời ở nơi đầu sóng ngọn gió.

Hạnh phúc là gì? Hai người yêu nhau ở đây cũng đã hỏi nhau như thế. Thư gửi cho người yêu, anh Thạc bảo sẽ trả lời vào ngày 30-4-1975. Những lá thư của năm 1971...

5. Bức thư tình và lời hẹn hò lớn lao


Như Anh (ảnh chụp năm 1972)
Nồng nàn, trìu mến, những linh cảm buồn, và lời hẹn 30-4 cứ trộn lẫn vào nhau trong những trang thư Nguyễn Văn Thạc gửi cho người bạn gái Phạm Thị Như Anh. Những bức thư này, nhà thơ Đặng Vương Hưng gửi choTuổi Trẻ, không có trong nhật ký...

30-4-1971

...Bốn năm nữa Như Anh “đã trở thành con người hoàn chỉnh”, đã có thể trả lời câu hỏi: “Hạnh phúc là gì?”.

Chao ôi, Như Anh, Như Anh bé bỏng của Thạc. Sao câu trả lời của Như Anh lại hay và đẹp đẽ thế. Ừ, phải rồi, khi nào “trở thành người lớn thực sự, khi nào đóng góp được cho Tổ quốc, khi đấy ta mới trả lời được, hạnh phúc là gì!”. Cám ơn thầy Nga văn ngộ nghĩnh của Như Anh đã giúp cho Thạc hiểu được khía cạnh đẹp đẽ ấy của tâm hồn bạn.

...Bốn năm nữa biết bao sự kiện sẽ xảy ra. 30-4-1975 thì Thạc và Như Anh đang ở trong tình trạng nào? Như Anh ơi, hứa với Thạc đi, 30-4-1975, dù chúng ta có thể giận, ghét nhau đến đâu đi nữa, dù thế nào cũng sẽ viết cho nhau những dòng chữ “hạnh phúc là thế nào” nhé! Thạc sẽ nhớ lời hứa này và sẽ chuẩn bị “ý tứ” cho bức thư ngày ấy bằng cuộc sống bốn năm sắp tới.

Phải, thời gian sẽ là người chứng kiến cuộc sống của chúng ta. Có thể nhiều biến cố và thử thách sẽ đến. Nhất định thế, vì Như Anh hãy nhớ rằng: đời Thạc, một cuộc đời đầy rẫy mâu thuẫn và đau khổ, đầy ước mơ và rạo rực, đầy những dằn vặt và thử thách lớn lao. Thạc sống không bình thường và không muốn sống bình thường.

Muốn có nhiều thử thách, nhiều “lang bạt”, muốn như cánh chim đại bàng đứng trên đỉnh núi cao, nhìn ra bốn phía, nơi nào có bão táp, có mưa, có gió là nơi Thạc sẽ đến. Thạc sẽ không chỉ đơn thuần là một sinh viên tổng hợp toán. Như Anh hãy nhớ thế. Đừng một lúc nào nghĩ Thạc là một “ngài sinh viên” nhé! Không, Thạc không chỉ tầm thường là một ngài sinh viên đâu. Thạc đã và sẽ sống hai, ba cuộc sống gian khổ, phức tạp. Cho đến khi nào Thạc không còn tồn tại, khi đó mới hết những cơn giông tố.

... Như Anh chưa thể hiểu được câu Thạc viết: “Như Anh là một điều đau buồn của Thạc... Như Anh là màu xanh da trời kỳ dị... Như Anh là trái mơ chua (!)...”.

Phải, Như Anh chính là vậy. Như Anh sẽ là điều đau buồn của tâm hồn Thạc, vì Như Anh sẽ chẳng ở lâu với Thạc. Như Anh sẽ xa và quên Thạc, sẽ để lại cho Thạc một khoảng trống mênh mông, sẽ lấy đi của Thạc một nguồn động viên an ủi, một âm thanh, không, cả thế giới âm thanh, cả một khu rừng muôn vàn cây lá, muôn vàn tiếng chim lích tích, lích tích, lảnh lót và ngân dài... Sẽ lấy của Thạc cả một dòng sữa và một dòng ánh sáng.

Màu xanh da trời kỳ dị kia. Ừ, cũng là Như Anh đấy, quen thuộc và gần gũi, thân yêu và trong sáng, giản dị nhưng vô cùng độc đáo và đẹp đẽ, nên thơ, rất cao và rất gần, rất rộng nhưng nó nằm trọn vẹn trong ánh mắt. Màu xanh da trời, chao ôi, không bao giờ người ta có thể nắm lấy nó, để bàn tay trên nó, chưa bao giờ được thực sự “gần gũi” nó cả. Cái màu xanh ấy, màu xanh da trời kỳ dị, nó ở xa, rất xa và ở trên rất cao. Lúc nào và hôm nào ta cũng thấy, cũng ngưỡng mộ. Nhưng nó là màu sắc của bầu trời...

Cám ơn Như Anh đã gửi Núi đồi - thảo nguyên cho Thạc, câu chuyện làm xao động tâm hồn Thạc nhiều. Và cái quạt nữa (chỉ tiếc, nếu dùng luôn thì một lúc nào đó sẽ rách). Như Anh tặng Thạc cái gì giữ được ấy, chứ quạt thì khó giữ lắm, mà rách thì rất tiếc.

...Thư dài rồi mà chẳng nói được gì cả. Như Anh sẽ trả lời Thạc chứ! Không biết thư này đem đến cho Như Anh niềm vui hay sự phiền toái. Thạc chỉ muốn như Anđecxen, đem cho Như Anh quả thông và lá cỏ, đem đến cho Như Anh những câu chuyện có thực mà như một giấc mơ...

4-9-1971

Như Anh yêu dấu,

Sáng nay, buổi cuối cùng ở nhà. Bạn của L. (*) đang ngồi ngoài kia, song toàn bạn gần nhà nên L. “được phép” vào viết thư cho Như Anh. L.muốn viết, muốn tặng Như Anh những giây phút quí giá mà L. đang còn là “tuổi nhỏ”. Ngày mai, những con chim câu vĩnh viễn bay vào khoảng trời đầy nắng gió kia...

Thật đáng tiếc biết bao, những ngày này trăng rắc bụi vàng trên các nẻo đường Hà Nội. L. của Như Anh đi cô độc và bình thản dọc theo hướng gió, gió lướt thướt kéo qua L. những lời quyến rũ, không, chẳng có gì quyến rũ nơi L. đâu. Gió, gió ơi, gió biết chăng ở thủ đô của xứ Mônđavi mùa đông phủ đầy tuyết trắng, có một bông hoa xanh màu ngọc bích, có một tia nắng của bầu trời, một làn gió nhớ thương, có một bài thơ, một trang cổ tích...

Gió có biết câu chuyện về bà chúa tuyết? Và gió hãy tìm đến ngôi nhà mà ta đề ngoài phong bì ấy, tìm gặp người nào cao cao, thanh mảnh, tìm đến đôi mắt nào đẹp nhất, tìm đến cái tên nào đẹp nhất, cái tên mà ta hay nhắc nhở trong những giấc mơ buồn, trong những giấc mơ vui, cái tên đẹp như ánh sáng xanh mà Sôlôkhôp thường ca tụng...

Gió hãy thầm thì thay ta nhé, nói gì cũng được, miễn là gió đem đến cho người ta yêu dấu hương vị nồng nàn, thanh bạch của trăm loại hương hoa, miễn là gió đem đến cho tâm hồn tuyệt đẹp của ta màu đỏ của lá phong mùa thu, và cánh chim câu bay đi từ ga Hà Nội...

Ừ, rồi đây cuộc sống sẽ khác xa, L. chưa hình dung nổi cuộc đời bộ đội của mình. Gian khổ, khó khăn, vất vả, chết chóc, hi sinh, tàn phế... Ba từ đầu sẽ đến với L., còn từ sau, không biết sẽ chọn lấy từ nào? Bàn tay nào, bàn tay của kẻ nào bên kia đại dương sẽ nhằm vào L. của Như Anh?...

Ngày mai, nếu ta chẳng gặp nhau, Như Anh đi trên những nẻo đường của ký ức, Như Anh nhìn vào đôi mắt nào gần gũi hay xa lạ với L., hãy nhớ L. một chút. Hãy nhớ rằng, ừ, có một người tên là L. đấy, đã chết rồi. Nhưng trước khi chết, người ấy đã sống và đã ghép tên Như Anh với vô vàn tính từ âu yếm...

Ở đâu L. cũng không quên Như Anh. Nhưng Như Anh nhớ nhầm rồi, L. bảo ngày 30-4-1975 mới trả lời câu “Hạnh phúc là gì?” cơ mà, chứ có phải 11-4-1975 đâu?

L. bỗng nhớ câu thơ của Phạm Tiến Duật:

Dân tộc ấy có gì kỳ lạ
Một nước bao nhiêu là đá vọng phu
Những năm tháng đợi chờ
Chỉ một là người, hai là hóa đá
Dân tộc ấy có gì kỳ lạ...

Hôm nay, 4-9-1971, buổi sáng cuối cùng trên quê hương, lúc này là 11g trưa, nắng đỏ hồi, đỏ lửa... Lát nữa, 2g L. tập trung, chẳng có ai ra tiễn cả, kể cả gia đình, L. đi như đi học, thanh thản và nhẹ nhàng... Ừ, L. đi học, trường đại học cộng sản Như Anh nhé, chờ L. nhé...

18-9-1971

... Lecmôntôp, với câu thơ nổi tiếng mà Như Anh chép cho Thạc bỗng dưng lại trở về bên Thạc: Thuyền cần gió táp mưa sa...

Bất kỳ một sự vinh quang nào cũng cần phải trả bằng một giá, và khó khăn gian khổ càng nhiều, và thử thách càng nhiều, sự vinh quang đó càng trở nên rực rỡ.

Chúng ta đừng đi tìm những chân lý sâu xa đơn thuần qua những áng văn và những bài thơ, bài toán. 30-4-1975, Thạc sẽ trả lời cho Như Anh câu: Hạnh phúc là gì? Khi Như Anh chào cờ, khi điệu nhạc quốc ca hùng tráng trỗi lên, Như Anh chắc rất xúc động, nhưng khi tiễn ở trường, Thạc đã khóc và tất cả 300 con người sắp vào bộ đội đã khóc. Ôi chao, buổi đó thật là xúc động. Cả người run lên, rờn rợn. Thế là từ nay trong khúc nhạc này, có một phần mồ hôi, xương máu của đời mình.

Chống Mỹ cứu nước, thời đại bão táp đó không kéo dài đâu. Buổi bình minh của cách mạng, phải không Như Anh? Ai sẽ là người đi vào mờ sáng? Đó là Thạc và 300 con người ở Trường Tổng hợp này.

Ai sẽ là người chết lúc bình minh? Không biết, nhưng nếu được xung phong, chắc không ai là người chùn bước!

26-3-1972

Như Anh yêu dấu của Thạc,

...Như Anh biết không, khi được tin Thạc không còn trong danh sách lưu học sinh nữa, lúc ấy Thạc buồn không thể nào tưởng được. Từ trước vẫn ao ước được đi học nước ngoài, ở đó Thạc sẽ tiếp thu những kiến thức hiện đại nhất của khoa học. Thạc sẽ học thật chăm, thật giỏi... Nhưng Thạc phải ở nhà và chuẩn bị đi bộ đội. Lúc đó buồn và nản hết sức, không muốn gặp ai cả.

Ra ga tiễn các bạn đi, vừa tủi thân vừa có chút gì xấu hổ (ôi chao, cái thời vừa chập chững vào đời ấy, có gì đáng trách đâu Như Anh nhỉ?). Thế rồi, suốt cả vụ hè, thở ngắn than dài. Mùa hè ấy Thạc đã đọc rất nhiều tác phẩm văn học. Lần đầu tiên đọc trọn ba tập tiểu thuyết tự thuật của M.Gorki, Thạc hiểu rằng không thể nào làm được điều gì lớn lao nếu cuộc sống của mình không thực sự lớn lao.

Chẳng gì có thể ngăn cản được con người khi bản thân họ nung nấu trong lòng một nghị lực phi thường không gì dập tắt nổi. Khi bản thân họ đang nuôi một ước mơ chân chính: trở thành người có ích cho đất nước. 17-7-1970 thi đại học thì 15-7 Thạc mới đi vào ôn thi. Hai ngày thôi, chỉ có hai ngày mà Thạc của Như Anh ôn xong hoàn chỉnh cả toán, lý và hóa. Và với lòng tự ái ít nhiều, Thạc của Như Anh đã làm tốt nhất hai bài lý và hóa, với điểm toán thấp nhất là 7.

Bây giờ đây Thạc muốn nói với Như Anh điều mà Thạc còn e ngại mãi: chờ Thạc, Như Anh nhé! Chờ Thạc đi chiến đấu trở về. Chắc không còn lâu nữa chiến tranh sẽ kết thúc thôi. Thạc sẽ trở về và lại đi học tiếp. Thạc lại mặc chiếc áo xanh da trời xanh màu thương nhớ. Lại hò hẹn Như Anh, vì chúng ta gặp nhau ở cái cửa sổ sơn xanh của thư viện nhân dân.

Thôi nhé, bắt tay cô sinh viên nào. Vui và khỏe nhé. Học giỏi nhé, thỉnh thoảng nhớ Thạc chụp ảnh và viết thư gửi về cho Thạc nhé. Cứ nhé mãi thôi. Đừng “ghét Thạc” nhé!

Xiết chặt Như Anh. Thạc của Như Anh.

Thạc của Như Anh đã không trở về! Không về được, dù lời hẹn hò của đôi lứa yêu nhau đã như lời tiên tri cho ngày đoàn tụ của cả dân tộc...

Trong một trận đánh ác liệt bên thành cổ Quảng Trị, một loạt đạn pháo của kẻ thù đã rơi trúng chỗ chiến sĩ thông tin Nguyễn Văn Thạc... Hôm đó ngày 30-7-1972.


6. Chuyện chưa kể trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi


Tác giả bài viết và ông Nguyễn Văn Thục (phải) bên mộ của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc tại nghĩa trang liệt sĩ Từ Liêm, Hà Nội

Những trang nhật ký mà chúng ta vừa được đọc chỉ là một phần của cuốn sách dày 320 trang in. Bản thảo gốc là một cuốn sổ tay khổ nhỏ, bìa bọc nilông màu xanh, với tổng cộng 240 trang chép tay, chữ nhỏ li ti, đều tăm tắp, rất ít gạch xóa, được viết bằng mực xanh và đen.

Cuộc hành trình 33 năm của cuốn sổ tay

Cuốn sổ nói trên được Nguyễn Văn Thạc gửi về nhà từ Kỳ Anh (Hà Tĩnh), trước khi vào mặt trận và hi sinh sau đó gần hai tháng. Tuy nhiên, do điều kiện thời chiến, bưu điện phải gửi giấy báo tới lần thứ ba, gia đình anh mới có người ra nhận. Chỉ chậm một hai ngày nữa là bưu phẩm có thể bị trả lại và chắc chắn sẽ bị thất lạc vì người gửi đã ra mặt trận và hòm thư đơn vị cũng thay đổi.

Ông Nguyễn Văn Thục (anh ruột của Nguyễn Văn Thạc) là người đầu tiên đọc những trang ghi chép nêu trên. Ông cho rằng người giữ cuốn sổ thiêng liêng này không ai xứng đáng hơn là chị Phạm Thị Như Anh. Cũng giống như bao cô gái khác, lúc đầu chị Như Anh không tin người bạn trai thân thiết của mình đã chết.

Nhưng sự thật phũ phàng đã khiến chị sụp đổ, chán chường và buông xuôi số phận. Như Anh đã “xé rào” để kết hôn với một người Đức (thời đó ở miền Bắc, chuyện “lấy Tây” là rất ầm ĩ và không chấp nhận được!). Và cuốn sổ ghi chép của Nguyễn Văn Thạc đã theo TS Phạm Thị Như Anh đi định cư tại nước ngoài...

33 năm sau cuộc chiến đẫm máu ở Quảng Trị, người anh ruột của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc đã tiết lộ với tôi về cuốn sổ nhật ký nêu trên. Ông nói: “Nếu muốn công bố thì phải được sự đồng ý của Như Anh. Đã từ lâu gia đình tôi coi em nó như dâu con trong nhà”.

Qua địa chỉ e-mail và cả điện thoại, đã nhiều lần chúng tôi liên lạc với TS Phạm Thị Như Anh, một Việt kiều đang định cư tại Hannover (CHLB Đức), để thuyết phục chị. Tháng 12-2004, chị Như Anh đã bay về nước và mang theo cuốn sổ nói trên. Ngồi trong phòng làm việc của tôi, người đàn bà nổi tiếng là nghị lực và thông minh này đã vừa khóc vừa kể lại những kỷ niệm của mình với liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc. Chị bảo chính linh hồn của Thạc đã thúc giục chị phải trao “số phận” của cuốn nhật ký này cho một nhà thơ như tôi.

Mãi mãi tuổi hai mươi đã ra mắt bạn đọc như chúng ta đã biết.

Ngày cuối cùng của người lính Nguyễn Văn Thạc

Nhật ký, trang cuối cùng

...Kẻ thù không cho tôi ở lại. Phải đi. Tôi sẽ gửi về cuốn nhật ký này, khi nào trở lại, khi nào trở lại tôi sẽ viết nốt những gì lớn lao mà tôi đã trải qua từ khi xa nó, xa cuốn nhật ký thân yêu của đời lính.

Ừ, nếu như tôi không trở lại, ai sẽ thay tôi viết tiếp những dòng sau này? Tôi chỉ ao ước rằng, ngày mai, những trang giấy còn lại đằng sau sẽ toàn là những dòng vui vẻ và đông đúc. Đừng để trống trải và bí ẩn như những trang giấy này.

Một ngày cuối tháng 5-1972, Hà Tĩnh

Anh lính binh nhì

Trong một trận đánh ác liệt bên thành cổ Quảng Trị sáng 30-7-1972, chiến sĩ thông tin Nguyễn Văn Thạc được giao nhiệm vụ bảo đảm liên lạc cho trung đoàn 101, sư đoàn 325...

Sau này, một chiến sĩ cùng tiểu đội với anh là Nguyễn Quang Minh đã kể lại: Loạt đạn pháo của địch rơi đúng chỗ Thạc. Khi những tiếng nổ dữ dội vừa dứt, khói và bụi còn chưa hết, Minh và một chiến sĩ nữa là Chương cùng chạy ra thì đã thấy Thạc nằm đó. Một mảnh pháo chém ngang hai đùi của anh, máu chảy ướt đẫm ống quần.

Chương hốt hoảng hỏi:

- Thằng Thạc chết rồi à?

Mắt Thạc nhắm nghiền. Anh rên khe khẽ và nói trong đau đớn:

- Không, Thạc vẫn còn sống mà, chưa chết đâu.

Máu ra nhiều lắm. Mấy anh em vội xúm lại băng bó rồi khiêng Thạc lên trạm phẫu tiểu đoàn, với hi vọng “còn nước còn tát”. Các giấy tờ, sổ sách, quần áo của Thạc được anh em nhét chung vào balô của anh Y, một thương binh khác (nhưng khi ra tới Quảng Bình thì anh Y đã hi sinh, balô đựng di vật liệt sĩ bị thất lạc...; cùng ngày hôm đó, tiểu đội của Thạc hi sinh bốn người: Y, Bình, Được và...).

Minh chạy theo cáng thương, rơm rớm nước mắt động viên Thạc:

- Cố lên Thạc nhé. Gắng điều trị cho nhanh khỏi, hòa bình rồi có điều kiện ghé qua nhà mình chơi...

Thạc nói khẽ, thều thào trong hơi thở đứt quãng:

- Không... Mình tỉnh thế này tức là... sắp chết rồi... Chỉ tiếc là không còn chiến đấu được nữa... Bao dự định còn dang dở...

Kể từ đó Thạc không nói thêm được câu nào nữa. Anh đã tắt thở trong vòng tay của đồng đội. Như nhiều người lính hi sinh ngoài chiến trường, thi hài của anh được bọc trong một tấm tăng nilông và chôn cất ngay tại mặt trận.

Ở nghĩa trang liệt sĩ Từ Liêm...

Trong một lá thư viết năm 1973 gửi cho gia đình liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, một đồng đội của anh là Đặng Trực Ngôn (hiện là đại tá, chỉ huy trưởng căn cứ hải quân 696) đã thông báo địa điểm chôn cất Thạc.

Cuối năm 1976, Công ty 16 của Bộ Giao thông vận tải được giao nhiệm vụ khôi phục tuyến đường Hiền Lương - Dốc Miếu sau chiến tranh. Với cương vị phó chủ nhiệm (như phó giám đốc hiện nay) ông Nguyễn Văn Thục đã báo cáo cơ quan, xin phép được vượt sông Thạch Hãn đi tìm mộ em trai mình.

Hồi đó, mộ liệt sĩ còn nằm rải rác khắp mặt trận, trong mấy ngày liền, anh xã đội trưởng xã Triệu Long đã nhiệt tình dẫn ông Thục đi bộ khắp địa phương và cả vùng lân cận. Họ cùng xem xét hàng ngàn ngôi mộ nhưng không thấy có tên Nguyễn Văn Thạc. Tưởng đã hết hi vọng thì anh này chợt nhớ ra ngay sau vườn nhà mình còn ba ngôi mộ nữa... Ông Thục mừng rưng rưng nước mắt khi thấy một bia mộ có tên em trai mình. Ông định bốc một nắm đất mang về Hà Nội để thờ nhưng sau lại thôi vì chợt nảy ra ý định khác.

Một tháng sau, ông Thục trở lại Triệu Long cùng chiếc vali mới và đồ cúng lễ mua ở chợ Đông Hà. Ông đề nghị chính quyền địa phương và bà con trong thôn giúp đỡ để đưa hài cốt em trai về quê. Khi ngôi mộ được đào lên, người anh trai đã không cầm được nước mắt vì nhận ra em mình: mái tóc cắt ngắn với rất nhiều sợi bạc, hai đùi vẫn còn nguyên cả garô vết thương...

Khi đưa được hài cốt em trai về tới Hà Nội thì vẫn còn dở chuyến công tác, ông Thục chưa muốn cho ai biết nên đành giấu chiếc vali lên gác. Nhưng được đôi ngày, sợ người nhà tò mò mở vali tình cờ phát hiện, ông phải đưa nó vào tủ quần áo của mình và khóa lại. Mãi 10 ngày sau, đã 28 tết âm lịch, mới có thời gian rảnh, ông Thục tự đi liên hệ chỗ chôn cất rồi thông báo cho cả gia đình biết.

Một đám tang lặng lẽ, đầy nước mắt diễn ra âm thầm ngay tại nghĩa trang liệt sĩ Từ Liêm. Tự tay người cha già, cụ Nguyễn Văn Huệ, đã chuyển từng phần hài cốt của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc từ chiếc vali sang tiểu sành, rồi rắc nắm đất đầu tiên, đắp mộ cho con trai mình. Người con trai mãi mãi 20 tuổi...

ĐẶNG VƯƠNG HƯNG

NGUYỄN VĂN THẠC

Đêm trắng

(Tặng Như Anh - tác giả của 12 bài thơĐêm)

Đêm trắng trong là đêm của em
Đèn thành phố và sao trời lẫn lộn
Đêm của anh xếp kín đầy bom đạn
Pháo sáng chập chờn trộn trạo với sao sa.

“Đêm trắng trong như màu sắc thiên nga
Đêm âu sầu như ngôi nhà đổ nát
Đêm đen ấy mà vô cùng dịu mát...”
Bâng khuâng gì trong ban đêm em ơi?

Đêm của anh trong tầm bom rơi
Không thể ngủ nên đêm thành đêm trắng
Đêm bão thép chất chứa nhiều sâu lắng
Bà mẹ sinh con trai trong mờ tối căn hầm.

Những ban đêm thành cột mốc tháng năm
Đêm xanh vợi cũng trở thành đêm trắng
Đêm thao thức đón chờ ánh sáng
Đêm của chúng ta ấp ủ những mặt trời.

Quảng Bình, 11-7-1972

--------------

(Đây là bài thơ cuối cùng Nguyễn Văn Thạc gửi cho người thân. 19 ngày sau anh hy sinh - Đ.V.H.)

Nội dung liên quan

  • "Cơn sốt” nhật ký chiến tranh

    07/09/2005Thành công vang dội của "Mãi mãi tuổi hai mươi” và “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” là hiện tượng chưa có tiền lệ trên thị trường sách, các phương tiện truyền thông, cả trong tâm tưởng độc giả và toàn xã hội, nhất là lớp trẻ. Một số học giả đã đưa ra những kiến giải về “cơn sốt” này...
  • Cách sống Thùy Trâm

    07/09/2005Nhà Văn Nguyên NgọcNhà văn Nguyên Ngọc - người với con mắt tinh đời và tình cảm yêu thương sâu nặng - nói về chất "lửa" trong cuốn nhật ký tình cờ tìm thấy trong đống tro tàn của cuộc chiến tranh...
  • Qua "Mãi mãi tuổi hai mươi" và "Nhật ký Đặng Thùy Trâm" – nghĩ về văn hóa đọc

    07/09/2005Nguyễn HoàTheo tác giả Nguyễn Hòa, nếu coi Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thùy Trâm là hiện tượng cho thấy văn hóa đọc hình như chưa xuống cấp, thì phải chăng muốn lý giải vì sao người đọc thờ ơ với văn chương, trước hết phải đi tìm nguyên nhân từ người viết...
  • Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm

    03/08/2005Nhân dịp kỷ niệm ngày Thương binh liệt sĩ 27/7, tiếp theo cuốn nhật ký "Mãi mãi tuổi hai mươi" của Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc - Mỗi ngày một cuốn sách xin trân trọng được giới thiệu đến bạn đọc, những người yêu thích sách tập "Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm" của tác giả Liệt sĩ Bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm, vừa được Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành.
  • Nguyễn Văn Thạc - Tình yêu và hạnh phúc

    06/07/2005Chưa đầy 20 tuổi, Nguyễn Văn Thạc khoác ba lô vào chiến trường, chỉ mười tháng tuổi quân, chàng sinh viên khoa Toán - Cơ, đại học Tổng hợp Hà Nội, từng là học sinh giỏi văn nhất miền Bắc một thời đã viết hàng trăm trang thư, nhật ký và nhiều bài thơ có giá trị về chuyện đời, chuyện người… Quãng thời gian ngắn ngủi ấy, Nguyễn Văn Thạc đã viết lên đời mình và mãi để lại cuộc sống này một dấu ấn đẹp về tình yêu và hạnh phúc...
  • Mãi mãi tuổi hai mươi - một cuốn nhật ký đáng đọc

    05/07/2005Nhật ký "Mãi mãi tuổi hai mươi" - của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc 1952-1972 (viết từ ngày nhập ngũ 2.10.1971 đến ngày 24.5.1972) do NXB Thanh Niên vừa giới thiệu (ảnh) chiều 4.5.2005 là cuốn nhật ký dày dặn và khá hoàn chỉnh đầu tiên được xuất bản. Nhà thơ, nhà báo Đặng Vương Hưng cùng với việc biên soạn "Những lá thư chiến tranh", đã làm được một việc tốt đẹp - nhiều khi còn có ích hơn cả việc sáng tác - khi sưu tầm giới thiệu tập nhật ký này..
  • xem toàn bộ