Về sự cần thiết xây dựng tủ sách kinh điển
1. Trong quá trình hiện đại hoá, mở cửa và đi theo con đường chung của nhân loại, điều then chốt là tiếp thu và học hỏi những tri thức của thế giới. Chúng ta không thể phát triển nếu không học những bài học kinh nghiệm và sử dụng những thành tựu trong quá trình phát triển của các quốc gia tiên tiến khác. Để từ đó, trên nền tảng văn hoá, bẳn sắc, lịch sử đặc trưng của Việt Nam tìm ra mô hình và bài học phù hợp cho sự phát triển của mình.
Hiện nay, một điểm yếu của việc nghiên cứu là thiếu những cuốn sách và tri thức nền tảng của thế giới, đặc biệt là về khoa học xã hội. Ngay cả các giáo viên và sinh viên ngành xã hội cũng không đủ điều kiện tiếp cận nguồn tư liệu này. Sách vừa thiếu, ngoại ngữ kém…và ngay cả các sinh viên và nhà nghiên cứu giỏi cũng không dễ dàng tiếp cận được.
Nhật Bản bắt đầu công cuộc canh tân đất nước với công cuộc Minh Trị Duy Tân (1868) bằng cách tích cực học hỏi và tiếp thu những đặc điểm tiên tiến của văn minh Tây Phương. Trí thức Nhật Bản hiểu rằng muốn vượt Tây Phương thì trước hết phải khám phá để học lấy những bí quyết sở trường của Tây Phương không chỉ đơn thuần bằng việc mua súng đạn hay tàu chiến mà phải thấy được đâu là những "sở trường và bí quyết" của văn minh Tây phương. Họ cho rằng sách vở và những chuyến hành trình để "thám sát" các nước Tây Phương là cách tối ưu nhất để thu được kinh nghiệm và các bài học cần thiết để đạt được mục tiêu hiện đại hoá nước Nhật. Vì thế, việc tiếp thu văn hóa Tây phương được chính phủ Minh Trị đặt làm ưu tiên hàng đầu. Trong giai đoạn này, các dịch giả, điển hình là Fukuzawa Yukichi là những người đầu tàu trong việc truyền bá kiến thức và những tư tưởng tiên tiến của Tây Phương ở Nhật thông qua việc dịch và xuất bản rất nhiều sách vở của phương Tây để học lấy những tư tưởng cốt lõi phục vụ cho công cuộc cải cách.
Tôi kinh ngạc khi nhận thấy nhiều tác phẩm lớn của phương Tây đã được dịch ra tiếng Nhật từ rất sớm, vào nửa đầu thời Minh Trị (giai đoạn 1870-1885) như History of Civilization in England của Henry Buckle; The Theory of Legislation - Principles of the Civil Code của Bentham; On Liberty, Political Economy, Representative Government, Utilitarianism của J.S. Mill; Social Statics của Herbert Spencer; De l'esprit des lois của Montesquieu; Du contrat social của Rousseau.
Sau thất bại trong cuộc chiến tranh Trung-Nhật (1894-1895), Trung Quốc cũng tiến hành một chương trình tương tự. Những sĩ phu Trung Quốc có đầu óc cải lương với các lãnh tụ như Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu chủ trương rằng Trung Quốc cần thực hiện công cuộc canh tân theo gương Nhật Bản. Hàng ngàn sinh viên Trung Quốc đã sang Nhật du học và vô số sách báo tiếng Nhật đã được dịch sang chữ Hán. Đỉnh cao của việc dịch thuật các tác phẩm này diễn ra trong khoảng thời gian từ 1902 đến 1907, khi mỗi năm trung bình có hơn 50 cuốn sách dịch được xuất bản và năm 1903 đạt kỷ lục với 200 cuốn. Ngay trong thời gian này, chứ không phải chờ đến khi Đảng Cộng sản Trung quốc lên cầm quyền, tác phẩm Tuyên Ngôn Ðảng Cộng Sản của Marx và Engels đã được dịch cho người Trung quốc. Như Lương Khải Siêu nói, "Các tư tưởng mới lan tràn như đám cháy" và những tư tưởng mới được truyền tải thông qua sách dịch đó đã góp phần mang lại cuộc Cách mạng Tân Hợi 1911 ở Trung Quốc.
Cũng thông qua Tân Thư, các sĩ phu Việt Nam ở đầu thế kỷ 20 đã lĩnh hội được tư tưởng mới, điển hình là Phan Châu Trinh, Thân Trọng Huề, Ðào Nguyên Phổ. Nhìn lại Nguyễn Trường Tộ là nhà canh tân nổi tiếng của Việt Nam nhưng không thành công và khi đọc niên biểu và những hoạt động mà Nguyễn Trường Tộ thực hiện, tôi nhận thấy dù các kiến nghị ông viết rất nhiều và chính xác, nhưng ông không triển khai được các hoạt động kèm theo mà Fukuzawa đã làm, đó là dịch thuật và mở trường dạy học…để đào tạo ra một thế hệ mới. Cách tiếp cận của Nguyễn Trường Tộ là thuyết phục giới quan lại, nhà vua và triều đình; còn Fukuzawa Yukichi chọn cách xây dựng một tầng lớp mới, tạo dựng tinh thần mới cho cả dân tộc. Nhờ đó, Fukuzawa Yukichi đã thành công.
2 Trong lời Phát Đoan của bộ Nho Giáo, Trần Trọng Kim viết “Xét ra cho kỹ, sự bỏ cũ thay mới của ta hiện thời bây giờ không phải là không cấp bách, nhưng vì người mình nghĩ nông nổi, không suy nghĩ cho chín, chưa gì đã đem phá hoại cả đi. Thành thử cái xấu, cái dở của mình thì vị tất đã bỏ đi được mà lại làm hỏng mất đi cái phần tinh tuý đã giữ cho xã hội ta bền vững hàng mấy nghìn năm”.
Có lắm người tưởng rằng mình bắt chước người ngoài là điều có ích cho sự tiến hoá của nòi giống mình. Không ngờ rằng, sự bắt chước vội vàng quá, không nghĩ cho chín, lại thành cái độc, gây ra thứ bệnh cho xã hội mình…Mỗi dân tộc có một cái tinh thần riêng, cũng như mỗi cây có cội rễ đâm xâu xa xuống đất. Hễ cây nào tốt, hút được nhiều khí chất thì cành lá rườm rà. Dân tộc nào cường thịnh là người đã biết lưu giữ cái tinh thần của mình được tươi tốt luôn.”
Cho đến nay, 100 năm sau khi Trần Trọng Kim viết Việt Nam Sử lược, tính cách của người Việt Nam vẫn không hề thay đổi.
3. Trong cuốn Tâm lý đám đông, Le Bon viết “Một dân tộc là một cơ thể sống được sinh thành bởi quá khứ nên cũng giống như mọi cơ thể sống khác, nó chỉ có thể biến chuyển bởi những tích tụ từ đời này qua đời khác một cách chậm chạp và lâu dài. Những thay đổi mà con người có thể tạo ra chỉ là thứ bề ngoài…
Nếu không có truyền thống, tinh hoa của dân tộc hay nền văn minh dân tộc đó không thể được hình thành. Vì thế, con người sẽ có hai mối quan tâm chính kể từ khi được sinh ra, là thiết lập cho mình một hệ thống những tập tục, và cũng chính là thứ mà con người sẽ nỗ lực phá bỏ khi những tác dụng hữu ích của chúng không còn nữa. Không thể có nền văn minh nếu thiếu truyền thống nhưng không thể có phát triển nếu không phá bỏ những truyền thống đó. Khó khăn nan giải nhất là tìm ra sự cân bằng giữa ổn định và phát triển, tức là sự biến đổi. Nếu một dân tộc cho phép truyền thống của mình bám rễ quá sâu và quá vững chắc thì sẽ chẳng còn gì có thể thay đổi được nữa... Trong trường hợp đó, những cuộc cách mạng bạo động cũng chẳng mang lại điều gì bởi khi đó, những mảnh vỡ của hệ thống phong tục lại dần dần gắn bó lại với nhau để rồi trở lại thời quá khứ mà không hề có chút thay đổi nào…”
Nghị quyết của Trung Ương Đảng đã chỉ rõ ‘Chỉ có ổn định mới có phát triển’, nhưng làm thế nào để có được sự ổn định, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, chính trị mà quan trọng hơn, có được một xã hội ổn định, không quá biến động và chao đảo. Trong mọi xã hội, tầng lớp trung lưu mạnh luôn là trụ cột cho sự ổn định, chính tầng lớp trung lưu này hình thành và quyết định các văn hoá nghe nhìn, quyết định hành vi, thái độ cư xử và định hướng sự phát triển chính thống của xã hội. Nhưng hiện tầng lớp trung lưu ở Việt Nam chưa đủ mạnh.
Giống như con lật đật, dù lắc lư nghiêng ngả, nhưng với cái đế vững chắc, nó vẫn trở về vị trí cân bằng. Một nền tảng tri thức trải rộng, với một hệ thống các tác phẩm kinh điển của nhiều trường phái, cũng có vai trò như một tầng lớp trung lưu mạnh, sẽ làm ổn định xã hội. Khi ổn định, khi hiểu rằng không một học thuyết nào toàn diện và hoàn hảo, một dân tộc sẽ khó rơi vào những tâm trạng kích động, cực đoan, quá khích…Cũng giống như trong kinh tế, khi nhận thức của người dân và của doanh nhân ổn định, chúng ta sẽ không có những cơn rồ dại cả nước đổ xô đi nuôi chó Nhật, nuôi Vẹt Hồng Kông…và rất nhiều thứ phù phiếm, nhất thời khác
Mỗi cuốn sách kinh điển là một viên gạch trong 1000 viên gạch cần thiết xây ngôi nhà tri thức cần thiết đó cho dân tộc Việt.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuVăn hóa đọc cho thiếu nhi - cần không?
09/07/2005Phan ĐăngCơ hội thứ tư - toàn cầu hóa
18/04/2004Nguyễn Trần BạtThấy gì qua lối sống sinh viên thời nay?
21/10/2003Trương HiệuClip: Chúng ta luôn bên nhau
01/01/1900